MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát thanh là loại hình báo chí sử dụng ngôn ngữ âm thanh tổng hợp, bao gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc, tác động trực tiếp vào thính giác của đối tượng tiếp nhận. Trong ba thành tố của ngôn ngữ phát thanh, lời nói đóng vai trò then chốt. Cũng như lời nói tự nhiên của con người, lời nói báo phát thanh được tạo thành từ ba yếu tố: từ vựng, ngữ âm, ngữ pháp (mà đứng ở bình diện báo phát thanh, có thể gọi đại ý là ngôn từ và cách đọc, nói trên sóng). Ba yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ, bình đẳng trong việc giúp lời nói thực hiện chức năng thông tin, tuyên truyền.
Để lời nói đạt chất lượng, hiệu quả cao, mỗi nhà báo phát thanh cần nắm vững cách thức sáng tạo, sử dụng từ vựng, ngữ pháp, cách thức đọc, nói trên sóng. Trên thực tế, không phải nhà báo nào cũng biết cách sử dụng lời nói phù hợp. Nhiều nhà báo còn chủ yếu viết, đọc, nói theo kinh nghiệm cá nhân. Có những cách viết, cách đọc, nói đúng, hấp dẫn. Nhưng cũng không ít trường hợp viết sai, đọc, nói vô cảm, ảnh hưởng đến hiệu quả thông tin.
Do vậy, cần có những khảo sát, đánh giá thực tiễn một cách cụ thể, chính xác, toàn diện thực trạng sử dụng lời nói tiếng Việt trên Đài phát thanh Việt Nam hiện nay - mà đại diện tiêu biểu nhất là Đài TNVN, từ đó, nêu ra những vấn đề còn tồn tại, đề xuất hướng giải quyết nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả lời nói phát thanh là một việc làm cần thiết. Đó là lý do chúng tôi lựa chọn đề tài: “Lời nói trong báo phát thanh Việt Nam hiện nay” (Khảo sát các chương trình trên hệ VOV1, VOV2, VOVGT - Đài TNVN từ tháng 6/2008-6/2010) làm đề tài cho luận án Tiến sĩ chuyên ngành báo chí học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là đánh giá một cách toàn diện về cách thức sử dụng ngôn từ và cách đọc, nói của nhà báo phát thanh Việt Nam hiện nay, từ đó, nêu lên được những vấn đề đang đặt ra đối với việc sử dụng, sáng tạo lời nói trong báo phát thanh hiện nay và hướng giải quyết những vấn đề đó nhằm giúp lời nói phát thanh đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Làm sáng tỏ một số vấn đề lý thuyết liên quan đến lời nói và lời nói báo phát thanh trong thời điểm hiện nay.
Thứ hai: Khảo sát, phân tích, đánh giá cách thức sử dụng lời nói báo phát thanh ở Đài TNVN trên hai phương diện: sử dụng ngôn từ và đọc, nói trên sóng.
Thứ ba: Nêu những vấn đề đang đặt ra đối với việc sáng tạo lời nói trong báo phát thanh Việt Nam hiện nay và hướng giải quyết những vấn đề đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lời nói trong báo phát thanh Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận án này, chúng tôi chỉ nghiên cứu riêng về lời nói tiếng Việt của nhà báo phát thanh, được thể hiện trong các chương trình phát thanh qua radio – một dạng phát thanh phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay – đang được sử dụng ở các hệ VOV1, VOV2, VOVGT - Đài TNVN, từ tháng 6/2008 đến tháng 6/2010.
4. Giả thuyết nghiên cứu của luận án
Hiện nay, trên Đài TNVN, nhà báo đang áp dụng những cách thức sáng tạo lời nói rất đa dạng, phong phú. Ở một chừng mực nhất định, hệ thống lời nói trong các chương trình phát thanh đã đáp ứng yêu cầu đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Tuy nhiên, do hạn chế nhất định về kiến thức ngôn ngữ và trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận nhà báo, nên vẫn còn không ít tác phẩm vướng lỗi diễn đạt, lỗi thể hiện trên sóng.
Thực trạng đó đang đặt ra những câu hỏi lớn cần giải quyết là: Nên dùng từ trong phát thanh như thế nào? Nên sử dụng câu phát thanh ra sao? Nên xem phương thức thể hiện nào là chủ đạo trong các phương thức thể hiện trên sóng: đọc, đọc kết hợp với nói và nói?; hoặc nên kết hợp các phương thức này như thế nào? Nên vận dụng các yếu tố thuộc ngữ điệu lời nói như tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ, nhịp độ, âm sắc như thế nào để có thể đọc, nói truyền cảm? Nên khai thác các phương tiện ngữ âm khác như: chất giọng, cách kết hợp giọng, cách ngừng lời, cách phát âm… trong các chương trình ra sao để đảm bảo lời nói đạt được hiệu quả cao nhất?
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài này là Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vai trò, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của báo chí cách mạng; của mối quan hệ giữa báo chí với các hình thái ý thức xã hội khác...
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài này là lý luận báo chí và báo chí phát thanh; Luật báo chí và những quy định về đạo đức nhà báo Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng kế thừa một số quan điểm lý thuyết về ngôn ngữ học nói chung, ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ báo phát thanh nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu tư liệu: nghiên cứu một số sách, báo, tài liệu về ngôn ngữ học, ngôn ngữ báo chí, báo phát thanh, ngôn ngữ báo phát thanh để tìm kiếm những kiến thức lý thuyết phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài.
-Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tổng số chương trình được chúng tôi chọn khảo sát, phân tích, nêu đánh giá, nhận xét là 60 chương trình, trong đó, mỗi chương trình có thể được khảo sát ở nhiều số phát sóng khác nhau, từ tháng 6/2008 đến 6/2010. Trong số các chương trình phát sóng được chọn khảo sát, chúng tôi lựa chọn 100.000 từ ở 12 thể loại và phi thể loại khác nhau để khảo sát về tỉ lệ sử dụng các lớp từ; lựa chọn 10.000 câu ở 39 chương trình khác nhau để khảo sát tỉ lệ sử dụng các yếu tố thuộc về câu; chọn 480 tin, bài ở 48 chương trình để nhận xét cách vận dụng ngữ điệu đọc, nói trên sóng; chọn 165.138 âm tiết để khảo sát tốc độ đọc, nói v.v.
-Phương pháp thống kê: Thống kê các lớp từ, thống kê số lượng câu, số lượng giọng nói, thống kê các dạng câu, tốc độ, trường độ các tiếng trong câu... Sau đó, các số liệu này được xử lý bằng phần mềm xử lý thông tin định lượng SPSS nên kết quả thu về cụ thể, chính xác.
-Phương pháp quan sát, miêu tả các hiện tượng ngữ âm: Quan sát trực tiếp cách phát âm của các nhà báo phát thanh và quan sát gián tiếp qua phần mềm Cool Edit. Kết quả này được lấy làm dẫn chứng cho việc phân tích, đánh giá các phương tiện ngữ âm của lời nói.
-Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp một số nhà báo Đài TNVN để tìm hiểu cách thức sáng tạo, sử dụng lời nói của họ.
- Phương pháp điều tra ý kiến của nhà báo và thính giả bằng phiếu hỏi: Luận án sử dụng 40 phiếu thăm dò ý kiến các PTV, PV, BTV để biết ý kiến của họ về cách đọc, nói của các nhà báo Đài TNVN. Ngoài ra, chúng tôi phát 600 phiếu tham khảo ý kiến thính giả ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam để thu nhận những đánh giá cũng như nhu cầu của thính giả về lời nói trong báo phát thanh Việt Nam hiện nay. Trong phương pháp này, chúng tôi tiến hành lấy kết quả bằng cách sử dụng phần mềm xử lý thông tin định lượng SPSS.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận về lời nói trong báo phát thanh Việt Nam hiện nay, như: Lời nói trong báo phát thanh hiện nay gồm những thành tố nào? Mối quan hệ giữa các thành tố đó ra sao? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến phương thức sáng tạo lời nói của nhà báo phát thanh hiện nay? Người làm phát thanh phải khai thác lời nói theo những yêu cầu gì để đảm bảo lời nói đạt được hiệu quả cao nhất? Công chúng hiện đại có nhu cầu, khả năng tiếp nhận lời nói phát thanh hiện nay như thế nào?...
Thứ hai, luận án trả lời những câu hỏi về cách sử dụng từ vựng phát thanh, như: Từ vựng phát thanh được tạo nên bởi những lớp từ nào? Đặc điểm sử dụng các lớp từ đó của nhà báo phát thanh là gì? Trong các lớp từ của từ vựng phát thanh, lớp từ nào được sử dụng phổ biến, lớp từ nào ít được sử dụng, lớp từ nào phù hợp và lớp từ nào chưa thực sự phù hợp với lời nói phát thanh? Từ thực tế khảo sát, luận án đề xuất cách thức sử dụng từ vựng phù hợp.
Thứ ba, luận án trả lời các câu hỏi về cách sử dụng câu của nhà báo như: Có những kiểu dạng câu nào được sử dụng trong lời nói phát thanh? Kiểu dạng câu nào phổ biến, kiểu dạng câu nào không phổ biến? Kiểu dạng câu nào phát huy được hiệu quả thông tin và kiểu dạng câu nào còn hạn chế, bất cập? Từ thực tế đó, luận án đề xuất cách thức khắc phục hạn chế.
Thứ tư, về phương diện đọc, nói trên sóng, luận án làm sáng tỏ những khía cạnh như: Có bao nhiêu phương thức thể hiện lời nói trên sóng? Đặc điểm của mỗi phương thức thể hiện này là gì? Nhà báo phát thanh đang vận dụng các yếu tố ngữ điệu và các phương tiện ngữ âm khác như thế nào? Cũng trên cơ sở khảo sát, chúng tôi nêu những vấn đề đặt ra trong việc đọc, nói và thảo luận về hướng giải quyết chúng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận: Nếu được thực hiện thành công, luận án sẽ góp phần làm phong phú thêm kiến thức lý thuyết về phương thức sáng tạo ngôn từ và phương thức đọc, nói trên sóng phát thanh. Những kết quả của luận án còn là cơ sở cho các đề tài nghiên cứu tiếp theo về ngôn ngữ phát thanh.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo cho đội ngũ PV, BTV, PTV, người dẫn chương trình, các nhà quản lý ở các Đài phát thanh, giúp họ sáng tạo lời nói đạt chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Luận án còn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, học tập báo phát thanh ở bậc Đại học và sau Đại học.
8. Kết cấu Luận án
Ngoài Mở đầu, Tổng quan nghiên cứu của đề tài, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các công trình của tác giả có liên quan đến đề tài và Phụ lục, các nội dung chủ yếu của luận án được thể hiện trong 4 chương, 11 tiết, 200 trang.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Cho đến nay, chưa có tài liệu nào trực tiếp nghiên cứu về các vấn đề của lời nói báo phát thanh. Vì vậy, để có cơ sở xây dựng hệ thống lý thuyết về lời nói báo phát thanh, chúng tôi phải tiếp cận những kiến thức về ngôn ngữ học, ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ báo phát thanh.
1. Tài liệu về ngôn ngữ học
Trong các tài liệu mà chúng tôi tìm hiểu, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến ý kiến của các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước về khái niệm ngôn ngữ và lời nói, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói, các thành tố ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của lời nói (chẳng hạn: về các lớp từ vựng, các kiểu dạng câu, các yếu tố tạo nên ngữ điệu lời nói).
2. Tài liệu về ngôn ngữ báo chí
Trong những tài liệu này, các tác giả chủ yếu nêu những đặc điểm chung của ngôn ngữ báo chí, hoặc đưa ra yêu cầu chung về cách sử dụng từ ngữ, sử dụng câu.
Đặc điểm hoặc yêu cầu đối với lời nói chưa được đề cập trực tiếp. Tuy nhiên, có thể thấy, khi phân tích đặc điểm, yêu cầu của ngôn ngữ báo chí, hầu hết các tác giả đều xuất phát từ bình diện lời nói (ngôn ngữ văn tự). Do vậy, chúng cũng có giá trị tham khảo quý đối với luận án.
3. Tài liệu về ngôn ngữ báo phát thanh
Trên thế giới và ở Việt Nam, đề tài về ngôn ngữ phát thanh cũng đã bước đầu được nghiên cứu. Có tài liệu đưa ra nguyên tắc viết cho phát thanh, có tài liệu nêu yêu cầu chung về cách dùng từ ngữ, dùng câu, cách sử dụng tốc độ và thời lượng, sử dụng giọng nói, cách nói trên sóng… Những tài liệu này có giá trị tham khảo gần gũi đối với luận án. Tuy vậy, do các sách đều đề cập đến nhiều vấn đề của báo phát thanh, nên vấn đề về ngôn ngữ báo chí hầu hết đều dừng lại ở cấp độ chung nhất, khái quát nhất.
Như vậy: những tài liệu trong và ngoài nước mà chúng tôi có dịp tiếp cận đều chưa nghiên cứu về lời nói phát thanh với tư cách là một đối tượng nghiên cứu độc lập. Các tài liệu trên càng chưa đặt vấn đề khảo sát thực trạng sử dụng lời nói của nhà báo phát thanh Đài TNVN. Lý luận và thực tiễn về lời nói báo phát thanh vẫn còn một khoảng trống lớn cần được nghiên cứu, bổ sung.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỜI NÓI TRONG BÁO PHÁT THANH VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ, LỜI NÓI VÀ CÁC THÀNH TỐ CỦA LỜI NÓI
1.1.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói
Lời nói chính là ngôn ngữ đang hành chức, ngôn ngữ ở dạng hoạt động. Lời nói lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Không có ngôn ngữ thì không có lời nói, nhưng ngược lại, lời nói lại cần thiết cho ngôn ngữ được xác lập và phát triển. Không có lời nói, ngôn ngữ sẽ bị diệt vong.
1.1.2. Các thành tố của lời nói
Lời nói gồm 3 thành tố là ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp.
Ngữ âm là hệ thống các tín hiệu âm thanh được phát ra khi con người thực hiện quá trình giao tiếp, vừa nhằm biểu đạt nội dung thông tin, vừa nhằm tạo sự biểu cảm của lời nói. Từ vựng là toàn bộ các từ, cụm từ cố định của một ngôn ngữ, là vật liệu xây dựng nên ngôn ngữ và lời nói. Thành phần của từ vựng là các lớp từ, bao gồm: lớp từ khẩu ngữ, lớp từ trung hòa về phong cách, lớp từ thuộc phong cách viết. Ngữ pháp là toàn bộ các quy tắc biến đổi và kết hợp từ thành cụm từ, câu.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA LỜI NÓI BÁO PHÁT THANH VÀ NGÔN NGỮ BÁO PHÁT THANH
1.2.1. Báo phát thanh và đặc trưng loại hình
Báo phát thanh có những đặc thù ảnh hưởng trực tiếp tới yêu cầu sử dụng lời nói của nhà báo như: phương tiện chuyển tải thông tin duy nhất là âm thanh tổng hợp gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc; tác động trực tiếp qua tai đối tượng tiếp nhận; cung cấp thông tin cùng lúc tới hàng triệu thính giả nhưng thực ra lại là nói với từng cá nhân riêng biệt; thông tin phụ thuộc vào dòng thời gian tuyến tính; diện phủ sóng rộng; khả năng lưu giữ tư liệu kém…
1.2.2. Quan niệm về lời nói trong báo phát thanh hiện nay
Lời nói phát thanh là sản phẩm ngôn ngữ tồn tại dưới dạng âm thanh của những đối tượng tham gia vào hoạt động trao đổi thông tin trên sóng đài phát thanh với tư cách là cơ quan báo chí.
Lời nói của nhà báo phát thanh là sản phẩm ngôn ngữ tồn tại dưới dạng âm thanh của nhà báo, được phát trên sóng, nhằm mục đích trao đổi thông tin giữa nhà báo –đại diện cho đài phát thanh, với thính giả.
1.2.3. Mối quan hệ giữa lời nói báo phát thanh và ngôn ngữ báo phát thanh
1.2.3.1. Mối quan hệ giữa lời nói –tiếng động- âm nhạc trong ngôn ngữ báo phát thanh hiện nay
Ngôn ngữ báo phát thanh là ngôn ngữ âm thanh tổng hợp gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc. Ba thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ. Trong đó, lời nói chiếm vai trò quan trọng nhất. Ở 37 chương trình được khảo sát, tổng thời lượng dành cho tiếng động và âm nhạc là 90,8/596,6 phút, chiếm 15,2%; thời lượng dành cho lời nói nhà báo nhà báo là khoảng trên 70%.
1.2.3.2. Mối quan hệ giữa lời nói của nhà báo và ngôn ngữ báo phát thanh hiện nay
Với khoảng 70% thời lượng phát sóng, lời nói của nhà báo là thành tố hạt nhân của ngôn ngữ phát thanh. Lời nói của nhà báo - dù đứng một mình, không kèm tiếng động, âm nhạc, vẫn thể hiện được tương đối đầy đủ phẩm chất của ngôn ngữ phát thanh.
1.2.4. Các thành tố của lời nói báo phát thanh và mối quan hệ
Cấu tạo của lời nói phát thanh gồm 3 thành phần: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Dưới góc độ báo chí học, có thể hiểu đơn giản, thành tố của lời nói báo phát thanh gồm phần lời (từ vựng, ngữ pháp), phần tiếng (giọng đọc, giọng nói). Giữa phần lời và phần tiếng có mối quan hệ gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau. Muốn có lời nói hay, nhà báo phải quan tâm đúng mức đến cả cách dùng từ, đặt câu và cách đọc, nói trên sóng.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ LỜI NÓI TRONG BÁO PHÁT THANH VIỆT NAM HIỆN NAY
1.3.1. Sơ lược về diện mạo báo phát thanh Việt Nam hiện nay
Việt Nam hiện nay có 1 đài phát thanh Quốc gia (Đài TNVN), 63 đài phát thanh địa phương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hơn 800 đài phát thanh, truyền thanh cấp huyện và gần 8000 đài truyền thanh cấp xã. Hiện nay, có nhiều dạng thức tồn tại của phát thanh: phát thanh phát trên mạng internet (radio on internet), phát thanh internet (radio online), phát thanh trên điện thoại (radio mobile), Podcasting, phát thanh có hình
Đài TNVN cơ bản đã đáp ứng những tiêu chí của một đài phát thanh hiện đại. Nhiều vấn đề đặt ra về cách sử dụng ngôn từ, cách đọc, nói trên sóng ở Đài TNVN cũng chính là những vấn đề đang đặt ra đối với nhiều đài phát thanh địa phương ở Việt Nam hiện nay.
1.3.2. Chủ thế của lời nói trong báo phát thanh hiện nay
1.3.2.1. Về các dạng chủ thể lời nói
Trong báo phát thanh hiện đại, chủ thể lời nói đa dạng hơn trong phát thanh truyền thống, bao gồm lời nói của PV, BTV, PTV, lời nói của người dẫn chương trình, lời nói của cộng tác viên, khách mời và các nhân chứng.
1.3.2.2. Tần suất xuất hiện các dạng lời nói nhà báo trong phát thanh hiện nay
Hiện nay, dạng lời nói xuất hiện nhiều nhất là của PV, BTV (gồm cả người dẫn chương trình). Khảo sát ở 37 chương trình, giọng PTV chiếm 9,1%, giọng PV, BTV chiếm 90,9%.
1.3.3. Yêu cầu đối với lời nói trong báo phát thanh hiện nay
1.3.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến phương thức sáng tạo lời nói của nhà báo phát thanh hiện nay
Có 3 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến phương thức sáng tạo lời nói của nhà báo phát thanh hiện nay: Sự ra đời của các chương trình phát thanh hiện đại; Sự thay đổi về đặc điểm và nhu cầu tiếp nhận thông tin của thính giả hiện nay; Sự vận động không ngừng của đời sống ngôn ngữ hiện đại trong xu thế tiếp biến văn hóa ngôn ngữ.
1.3.3.2. Những yêu cầu đối với việc sáng tạo lời nói báo phát thanh hiện nay
Đó là các yêu cầu: Dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ; Chính xác, đúng đắn; Sinh động, hấp dẫn; Hàm súc, cô đọng; Hiện đại; Kết hợp linh hoạt giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói; Phù hợp với đối tượng giao tiếp; Phù hợp với mục đích giao tiếp; Phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp; Đảm bảo phép lịch sự.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 nêu rõ, giữa ngôn ngữ và lời nói có mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất. Trong ngôn ngữ báo phát thanh, lời nói của nhà báo là thành tố quan trọng bậc nhất. Nó gồm 2 phần: phần lời và phần tiếng. Hai thành tố này có mối quan hệ phụ thuộc và quyết định lẫn nhau. Dưới tác động của sự thay đổi tính chất chương trình, nhu cầu thính giả, sự vận động của ngôn ngữ hiện đại, nhà báo phát thanh phải sáng tạo lời nói đảm bảo các yêu cầu: dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ; chính xác, đúng đắn; sinh động, hấp dẫn; hàm súc, cô đọng; phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh và mục đích giao tiếp; hiện đại, lịch sự; kết hợp một cách linh hoạt cả văn nói và văn viết...
Chương 2
PHƯƠNG DIỆN SỬ DỤNG NGÔN TỪ CỦA LỜI NÓI BÁO PHÁT THANH Ở ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
2.1. PHƯƠNG THỨC TẠO LẬP LỜI NÓI CỦA NHÀ BÁO PHÁT THANH HIỆN NAY
Nhà báo Đài TNVN có 4 cơ chế tạo lập lời nói chủ yếu: 1) Biên tập lại hoặc sử dụng gần như nguyên dạng các nguồn tài liệu khác nhau; 2) Lời nói do nhà báo phát thanh sáng tạo, tồn tại dưới dạng văn bản hoàn chỉnh trước khi được thể hiện bằng phong cách đọc hoặc đọc kết hợp với nói trên sóng; 3) Lời nói do nhà báo phát thanh sáng tạo, tồn tại dưới dạng đề cương chi tiết trước khi được thể hiện bằng phong cách đọc kết hợp với nói hoặc nói trên sóng; 4) Lời nói do nhà báo phát thanh nói ứng khẩu trên sóng, có thể tồn tại trước dưới dạng đề cương sơ lược hoặc có thể không.
Trong 4 cách tạo lập lời nói trên, lời nói do nhà báo sáng tạo và tồn tại dưới dạng văn bản trước khi được đọc, hoặc đọc kết hợp với nói chiếm tỉ lệ lớn nhất. Nhưng cho dù được tạo lập bằng cơ chế gì, do ai tạo lập, lời nói phát thanh luôn bị chế định chặt chẽ bởi nguyên tắc viết để nói.
2.2. CÁCH THỨC SỬ DỤNG TỪ VỰNG CỦA NHÀ BÁO Ở ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
2.2.1. Cách thức sử dụng lớp từ khẩu ngữ
2.2.1.1. Biểu hiện của lớp từ khẩu ngữ trong lời nói phát thanh
Lớp từ khẩu ngữ được nhận diện ở những từ ngữ sau: Lời chào, mời, thưa gửi, lời chúc tụng, cảm ơn; Các phụ từ, trợ từ, quan hệ từ, thán từ; Ca dao, thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ; Các từ ngữ với sắc thái nghĩa mới, nghĩa ngữ cảnh; Những từ, tổ hợp từ ngữ mang tính dân dã. Lớp từ KN chiếm tỉ lệ 5.7% . Nó đắc dụng nhất trong hai trường hợp: trong những tác phẩm cần phong cách ngôn từ sinh động, giàu chất văn học và trong những tác phẩm thiên về phản ánh thực tế với phong cách nói ứng khẩu.
2.2.1.2. Giá trị của lớp từ khẩu ngữ trong lời nói phát thanh
Nếu được sử dụng hợp lý, từ khẩu ngữ có những tác dụng như: Giúp lời nói gần gũi, thân mật hơn; Góp phần tăng cường giá trị biểu cảm cho tác phẩm; Giúp lời nói ngắn gọn, súc tích; Giúp thể hiện rõ ràng thái độ, quan điểm của nhà báo; Tạo nên giọng điệu riêng cho tác phẩm, giúp lời nói phát thanh tiến gần tới phong cách nói.
2.2.1.3. Một số bất cập trong sử dụng lớp từ khẩu ngữ
Trên Đài TNVN, việc sử dụng từ ngữ khẩu ngữ còn có một số bất cập như: Sử dụng từ khẩu ngữ tùy tiện; Một số từ khẩu ngữ bị dùng sai văn cảnh; Chưa tận dụng lợi thế của lớp từ khẩu ngữ văn hóa.
2.2.2. Cách thức sử dụng lớp từ thuộc phong cách viết
2.2.2.1. Biểu hiện của lớp từ thuộc phong cách viết
Những từ ngữ thuộc phong cách viết có thể được nhận diện ở: Những thuật ngữ khoa học; Những từ ngữ chính trị; Những từ ngữ hành chính; Từ Hán Việt, các từ mang nguồn gốc Ấn- Âu; Những từ ngữ không quen thuộc với người Việt. Theo khảo sát, lớp từ này chiếm 18,4%. Khảo sát cho thấy: 1) Những thể loại trong nhóm thông tấn, phản ánh sự kiện có tính thời sự cao như bài báo, bài phản ánh, tường thuật, tin… thường có xu hướng sử dụng nhiều từ ngữ thuộc PCV; 2) phóng viên vẫn bị chi phối bởi tư duy ngôn ngữ viết, ngay cả khi đưa tin trực tiếp tại hiện trường.
2.2.2.2. Giá trị của lớp từ thuộc phong cách viết trong lời nói phát thanh
Lớp từ thuộc phong cách viết có những giá trị như: Đảm bảo độ chính xác và ngắn gọn cần thiết cho lời nói; Thể hiện rõ sắc thái trang trọng của sự kiện; Thể hiện sự kiện một cách khách quan; Góp phần tăng vốn từ mới.
2.2.1.3. Một số bất cập khi sử dụng lớp từ thuộc phong cách viết
Trên Đài TNVN, việc sử dụng lớp từ thuộc phong cách viết vẫn còn một số bất cập như: Lạm dụng thuật ngữ khoa học, từ chuyên ngành hẹp, từ ngữ chính trị; Lạm dụng từ Hán- Việt, từ tiếng Anh (Dùng từ Hán-Việt trong khi có từ thuần Việt đồng nghĩa hoặc sử dụng quá nhiều từ Hán-Việt trong cùng một tin, bài; Sử dụng từ Hán -Việt sai, hoặc không thông dụng; Nhiều từ Hán- Việt được sử dụng không phù hợp văn cảnh; Lạm dụng từ tiếng Anh trong một số chương trình; ưa dùng từ viết tắt (bằng tiếng Anh) thay vì dùng từ tiếng Việt; Dùng các từ của người nước ngoài không thông dụng...).
2.2.3. Cách thức sử dụng lớp từ trung hòa về phong cách
2.2.3.1. Biểu hiện của lớp từ trung hòa về phong cách
Lớp từ trung hòa về phong cách được nhận diện là những từ ngữ trung hòa về sắc thái biểu cảm; Những từ tiếng phổ thông; Những từ ngữ đặc trưng của lời nói phát thanh (chẳng hạn: từ chỉ thời gian; từ chỉ vị trí; từ hàm nghĩa giải thích; từ chỉ số liệu). Trên Đài TNVN, lớp từ mang tính toàn dân - THVPC chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 76,9%. Điều đó cho thấy 2 điều: 1) Tính đại chúng của lời nói phát thanh đã được đảm bảo; 2) Tuy vậy, sự sáng tạo hay phong cách cá nhân trong sử dụng ngôn ngữ của nhà báo phát thanh chưa thực sự được phát huy.
2.2.3.2. Giá trị của lớp từ trung hòa về phong cách trong lời nói phát thanh
Lớp từ trung hòa về phong cách có những giá trị như: Đảm bảo tính khách quan của thông tin; Đảm bảo tính đại chúng cho lời nói phát thanh.
2.2.3.3. Một số bất cập khi sử dụng lớp từ trung hòa về phong cách ở Đài Tiếng nói Việt Nam
Thực trạng sử dụng cho thấy, lớp từ này còn một số bất cập, chẳng hạn: Nhiều từ chưa chọn lọc; Dùng thiếu từ; Dùng thừa từ; Dùng sai cặp quan hệ từ; Dùng từ sai; Dùng từ tối nghĩa; Không áp dụng những từ đặc thù trong lời nói báo phát thanh.
2.2.4. Cách thức sử dụng lớp từ được đánh dấu về phong cách
2.2.4.1. Biểu hiện của lớp từ được đánh dấu về phong cách
Lớp từ được đánh dấu về phong cách được nhận diện ở các từ ngữ như: Những thành ngữ, tục ngữ quán ngữ; những từ tạo ra nét nghĩa mới; Những từ ghép mới; Các từ, cụm từ giàu chất văn học; Từ tượng thanh, tượng hình; Các từ vựng tu từ.
Trên Đài TNVN, tỉ lệ sử dụng lớp từ này rất thấp, chỉ chiếm 2,2%, có thể do 2 nguyên nhân: 1) Bởi lớp từ này đòi hỏi sự sáng tạo cá nhân và khả năng sử dụng ngôn ngữ ở trình độ cao nên không phải tác giả nào cũng đủ năng lực sáng tạo; 2) Có những từ được ĐDVPC vốn có tính mới, tính lạ, nên không phải lúc nào cũng phù hợp với đặc thù tính toàn dân của lời nói phát thanh.
2.2.4.3. Giá trị của lớp từ được đánh dấu về phong cách
Lớp từ được đánh dấu về phong cách có những giá trị như: Tăng tính sống động, biểu cảm cho bài viết; Đem đến những lối dùng từ độc đáo, tạo sự mới mẻ cho lời nói.
2.3. CÁCH THỨC SỬ DỤNG CÂU Ở ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
2.3.1. Cách thức sử dụng chỉnh thể câu
2.3.1.1. Câu chủ động và câu bị động
Khảo sát 10.000 câu ở các dạng chương trình khác nhau cho thấy, câu chủ động chiếm 87,6%, câu bị động chiếm 12,4%. Trong số câu bị động được khảo sát, câu bị động tích cực chiếm 5,2%, câu bị động tiêu cực chiếm 7,2%. Việc sử dụng câu bị động tiêu cực khiến câu dễ bị trúc trắc, không thuận tai, thậm chí gây khó hiểu.
2.3.1.2. Câu đơn và câu ghép
Theo khảo sát, câu đơn chiếm 21,5%, câu ghép chiếm 78,5%. Số câu 1 ý chiếm 20,1%, câu 2 ý chiếm 50,1%, câu 3 ý trở lên chiếm 29,8%. Sử dụng nhiều câu ghép, câu nhiều ý cũng làm lời nói không dễ hiểu, dễ mắc lỗi.
2.3.1.3. Dung lượng âm tiết trong câu
Trong phát thanh không trực tiếp, số câu dưới 20 âm tiết chiếm 20,6%; từ 21-30 âm tiết chiếm 29,9%; từ 31-40 âm tiết chiếm 25,0%; từ 41-50 âm tiết chiếm 13,9%; trên 51 âm tiết chiếm 10,6%. Phát thanh trực tiếp sử dụng phương thức nói ứng khẩu có xu hướng sử dụng câu dài hơn so với các chương trình phát thanh không trực tiếp. Như vậy, Đài TNVN đang sử dụng nhiều câu dài. Điều này cũng dễ gây lỗi diễn đạt, khó hiểu, khó nhớ.
3.3.1.4. Cấu trúc chủ-vị trong câu
Về cơ bản, các câu đảm bảo đầy đủ thành phần chủ ngữ, vị ngữ. Chỉ khoảng 3,5% câu thiếu chủ, thiếu vị.
2.3.1.5. Trật tự ngữ đoạn trong câu
Để đảm bảo sự liền mạch trong lĩnh hội các ý trong câu, nhà báo thường sử dụng trật tự ngữ đoạn theo chiều thuận: chuyện gì xảy ra trước, nói trước, chuyện gì xảy ra sau, nói sau; ý của ngữ đoạn đến sau phải được phát triển từ ngữ đoạn đến trước. Tuy nhiên, ở Đài TNVN, vẫn còn nhiều câu có ngữ đoạn không xuôi chiều làm người nghe khó tiếp nhận.
2.3.1.6. Nhánh rẽ thông tin trong câu
Câu không có nhánh rẽ được viết theo quy tắc: từ (A) ->(A’)-> (B) ->(B’)…; còn câu có nhánh rẽ là câu theo kiểu: từ (A) -> (B) ->(B’) -> (A’).
Trong các chương trình được khảo sát, số câu có nhánh rẽ là 9,4%. Sử dụng câu có nhánh rẽ thông tin sẽ khiến lời nói bị trúc trắc, thông tin bị gãy khúc, bị gián đoạn, dễ dẫn tới hiểu sai, hiểu nhầm hoặc bỏ sót tin.
2.3.1.7. Quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ ngữ trong câu
Các từ trong một câu bao giờ cũng phải kết hợp phù hợp về mặt ngữ nghĩa để tạo nên những câu đúng. Trên Đài TNVN, tình trạng kết hợp ngữ nghĩa giữa các từ ngữ trong câu không phù hợp vẫn diễn ra trong hầu hết các chương trình.
2.3.2. Cách thức sử dụng chỉnh thể liên câu
2.3.2.1. Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các câu
Trong các tác phẩm phát thanh, câu vừa được liên kết với nhau thông qua sự liên kết về mặt nội dung (chủ đề), vừa được liên kết về hình thức (bằng cách thay thế từ vựng, lặp từ vựng, phép nối, phép thay thế đại từ...).
Ở các tác phẩm phát trên sóng Đài TNVN, vẫn còn lỗi liên kết câu. Chẳng hạn: Thông tin giữa các câu liền kề có mâu thuẫn; Các ý giữa các câu liền kề không rõ ràng, gây hiểu nhầm; Lặp ý, lạc ý, thừa ý.
2.3.2.2. Mối quan hệ giữa câu với phong cách tác phẩm
Xét ở góc độ phong cách thể loại, mỗi thể loại hoặc nhóm thể loại quy định cách dùng các loại câu khác nhau. Chẳng hạn, với thể loại tin, bài phản ánh, bài báo về lĩnh vực kinh tế, chính trị, tài chính, khoa học kỹ thuật..., nhà báo thường sử dụng câu trần thuật, câu có thành phần đồng chức.
2.3.2.3. Mối quan hệ giữa câu với đối tượng giao tiếp
Nhìn chung, trên Đài TNVN, sắc thái thông tin và phong cách ngôn ngữ của lời nói đã đảm bảo phù hợp với từng đối tượng giao tiếp, cả với đối tượng giao tiếp hẹp và đối tượng giao tiếp rộng.
2.3.3. Về mối liên kết giữa các tác phẩm
2.3.3.1. Liên kết qua chủ đề
Lời nói trên Đài TNVN đã đảm bảo: Hệ thống các câu liên kết với nhau tạo thành tin, bài với chủ đề cụ thể; Nhiều tin, bài gắn bó chặt chẽ với nhau trong một chủ đề chung - là chủ đề chương trình. Tất cả các chương trình được ràng cột bằng hệ thống lời dẫn và tôn chỉ mục đích chung, tạo thành chủ đề của hệ trong cùng hệ chương trình.
2.3.3.2. Liên kết qua lời dẫn
Trên Đài TNVN có hai dạng lời dẫn: lời dẫn chương trình và lời dẫn hệ chương trình. Lời dẫn hệ làm Hệ chương trình có tính “mở”, đồng thời, giúp người nghe chủ động tiếp nhận những nội dung mà họ quan tâm.
Tuy nhiên, cách dẫn dắt trên sóng Đài TNVN thời gian qua cũng còn một vài bất cập, như: Nhiều lời dẫn chương trình chưa hấp dẫn; Còn hiện tượng vi phạm tính lịch sự trong giao tiếp.
Tiểu kết chương 2
Tất cả các lớp từ vựng tiếng Việt như lớp từ KN, lớp từ thuộc PCV, lớp từ THVPC, lớp từ được ĐDVPC đều có mặt trong lời nói phát thanh. Trên Đài, câu chủ động được dùng nhiều hơn câu bị động; câu ghép được dùng nhiều hơn câu đơn; câu từ 2 ý trở lên được dùng nhiều hơn câu có 1 ý; câu dài được sử dụng nhiều hơn câu ngắn.
Trên Đài TNVN, vẫn còn các câu thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ gây lỗi, câu có ngữ đoạn không xuôi chiều, câu có nhánh rẽ thông tin. Ngoài ra, khảo sát cho thấy, mối quan hệ giữa câu với câu, giữa câu với phong cách tác phẩm, với đối tượng giao tiếp... cũng còn gợi lên nhiều vấn đề đáng quan tâm. Điều này sẽ được thảo luận để tìm hướng giải quyết trong chương 4 của luận án.
Chương 3
PHƯƠNG DIỆN ĐỌC, NÓI TRÊN SÓNG
Ở ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
3.1. CÁC PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN LỜI NÓI TRÊN SÓNG ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
3.1.1. Đọc
Phương thức đọc có một số đặc điểm được xác định như: Người đọc hoàn toàn phụ thuộc vào văn bản viết; “Đọc biểu cảm” là phẩm chất cao nhất của giọng đọc; Xuất hiện chủ yếu trong các chương trình không trực tiếp, đặc biệt ở những thể loại không có hoặc ít có yếu tố hội thoại; Người thực hiện phương thức đọc bao gồm cả PTV, PV, BTV. Số lượng tác phẩm được thể hiện bằng phương thức đọc chiếm tỉ lệ rất cao, khoảng 63,7%.
3.1.2. Đọc kết hợp với nói (giả nói)
Đọc kết hợp với nói có một số đặc điểm được xác định như: Nhà báo phụ thuộc chủ yếu vào văn bản; Người giả nói dễ thể hiện bản sắc cá nhân qua phong cách khẩu ngữ hóa; Xuất hiện nhiều nhất trong các chương trình hoặc thể loại có tính đối thoại hoặc tương tác; Người nói trên sóng bao giờ cũng là PV hoặc BTV. Ở Đài TNVN, có khoảng 23,8% tác phẩm được thể hiện bằng phương thức này.
3.1.3. Nói ứng khẩu
Nói ứng khẩu có một số đặc điểm như: Người nói cơ bản thoát ly hoặc thoát ly hoàn toàn văn bản viết; Năng lực cá nhân của người nói bộc lộ rõ ràng; Sử dụng lời nói ở dạng nói; Xuất hiện khá thường xuyên trong các chương trình phát thanh trực tiếp, trong những thể loại có sự tương tác với khách mời, với công chúng; Người nói là PV, BTV có uy tín, có kinh nghiệm của Đài. Trên Đài TNVN, nói ứng khẩu chỉ chiếm khoảng 12,5%.
3.2. VỀ CÁCH VẬN DỤNG CÁC YẾU TỐ NGỮ ĐIỆU KHI ĐỌC, NÓI
3.2.1. Về vận dụng yếu tố tốc độ
Tốc độ đọc, nói trung bình trong mỗi thể loại, mỗi chủ đề, mỗi đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp là khác nhau. Tính trung bình, tốc độ thể hiện lời nói hiện nay 246 âm tiết/ phút, là tốc độ khá nhanh.
Việc vận dụng tốc độ ở Đài TNVN còn một vài hạn chế, chẳng hạn: Còn hiện tượng lệch tốc độ không hợp lý giữa các tác phẩm; Còn hiện tượng đọc, nói quá nhanh hoặc quá chậm; Đọc, nói các cụm từ trong câu nhanh, chậm không hợp lý.
3.2.2. Về vận dụng yếu tố cao độ (âm vực)
Giọng đọc, nói khi nhà báo thông tin trực tiếp tại hiện trường, trong những chương trình có sắc thái thông tin thiên về vui thường ở âm vực cao hơn giọng nói của nhà báo tại studio, ở chỗ ít tiếng ồn hay trong những chương trình có sắc thái thông tin thiên về buồn.
Việc vận dụng cao độ của nhà báo Đài TNVN còn một vài bất cập như: Còn hiện tượng các giọng cao, thấp không hợp lý trong phạm vi chương trình; Trong phạm vi câu, còn hiện tượng sử dụng cao độ cao hoặc thấp một cách bất thường giữa các tiếng hoặc ngữ đoạn.
3.2.3. Về vận dụng yếu tố cường độ (âm lượng)
Thể loại tường thuật trực tiếp, phản ánh trực tiếp từ hiện trường; ở các tin, bài có sắc thái vui nhộn, trẻ trung, khỏe khoắn thường mạnh hơn trong những tác phẩm có sắc thái thông tin buồn, hoặc thiên về tự sự, trữ tình. Cường độ là tín hiệu báo kết thúc một ngữ đoạn, một câu, một bài; giúp khu biệt những từ ngữ mang nghĩa giải thích, những từ ngữ trong ngoặc đơn, ngoặc kép, những trọng âm. Về lỗi vận dụng cường độ, trên sóng Đài TNVN vẫn còn hiện tượng lệch âm lượng không hợp lý giữa các giọng đọc trong cùng chương trình.
3.2.4. Về vận dụng yếu tố trường độ
Nhà báo Đài TNVN thường thể hiện các tiếng ở trường độ trung bình (từ 151 ms - 250 ms), chiếm 45,6%, sau đó đến trường độ ngắn (từ 101sm- 150 ms) chiếm 20,5%. Các tiếng ở trường độ rất ngắn - dưới 100 ms chiếm 13,8% và các tiếng ở trường độ dài từ 251 ms trở lên chiếm 20%.
Một số thể loại ở chương trình Thời sự, Kinh tế - Khoa học, trường độ các tiếng thường ngắn, nhanh hơn so với ở thể loại bình luận, phóng sự. Thông thường, những tiếng được đọc, nói kéo dài thường mang thông báo quan trọng hơn những tiếng được đọc lướt nhanh.
3.2.5. Về vận dụng yếu tố nhịp độ
Nhà báo phát thanh thường áp dụng lối ngắt nghỉ theo ngữ đoạn; theo dấu chấm, dấu phẩy; theo “tâm lý” (nội dung thông tin).
Tuy nhiên, lỗi ngắt nghỉ không phù hợp xuất hiện với tuần suất khá cao (số tác phẩm phạm lỗi ngắt nghỉ từ 3 lần trở lên chiếm 30,9%); Nhiều tác phẩm, thời gian dừng lời kéo dài bất hợp lý trong câu.
Tóm lại, về mặt trình bày, trên Đài TNVN, khoảng 71,5% tác phẩm được trình bày với ngữ điệu ổn định. Khoảng 28,5% có giọng đọc, nói dừng ở mức biểu đạt, thậm chí, có bài có chất lượng đọc, nói rất kém.
3.3. VỀ CÁCH VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN NGỮ ÂM KHÁC
3.3.1. Chất giọng và âm sắc giọng
Trên Đài TNVN, chất giọng miền Bắc chiếm tỉ lệ cao nhất, khoảng 83,2%. Giọng miền Trung chiếm 1,5%, giọng miền Nam chiếm 15,3%. Các giọng đọc trên Đài cho dù ở vùng miền nào, đều cố gắng phát âm thiên theo chuẩn giọng phổ thông.
3.3.2. Sắc thái giọng đọc, giọng nói
Vùng sắc thái giọng đọc, giọng nói nói chung được định hình bởi thể loại báo chí, đối tượng giao tiếp, nội dung thông tin. Tuy nhiên, trên sóng, vẫn còn nhiều giọng đọc hời hợt, vô cảm, vẫn còn hiện tượng “lạc sắc giọng”, không biểu lộ đúng sắc thái thông tin.
3.3.3. Cách phát âm
Trên sóng, tỉ lệ các tiếng bị phát âm không rõ chỉ chiếm 2,3%. Hạn chế trong phát âm của nhà báo là: Phát âm không rõ dấu thanh; Đọc sin sít; Đọc, nói “nuốt” âm, “nuốt” tiếng hoặc không rõ tiếng; Tiếng nọ dính tiếng kia; Lỗi phát âm tiếng nước ngoài; Đọc lỗi ở các con số; Đọc, nói bị vấp hoặc nhịu.
3.3.4. Biện pháp nhắc lại
Để phòng chống thất thoát thông tin, hoặc để “ghim” thông tin vào tâm trí thính giả, nhà báo thường dùng biện pháp nhắc lại những thông tin chính vừa phát. Tuy nhiên, ở Đài TNVN, trong rất nhiều chương trình, biện pháp nhắc lại thường xuyên bị quên.
3.3.5. Cách kết hợp giọng trong chương trình và hệ chương trình
Trong phát thanh hiện nay, kết hợp nhiều giọng là hiện tượng phổ biến trong chương trình. Trên sóng, giọng nữ xuất hiện nhiều hơn giọng nam, với tỉ lệ 55% và 45%. Ở góc độ chủ thể lời nói, giọng của BTV chiếm tỉ lệ cao nhất, 56,5%, giọng của PV là 34,4%, thấp nhất là giọng PTV, 9,1%.
Trên Đài, trong nhiều chương trình, kết hợp giọng nam và nữ còn chưa cân đối. Tình trạng bị nhòa danh tính vẫn diễn ra.
Tiểu kết chương 3
Trong 3 phương thức đọc, đọc kết hợp với nói và nói (ứng khẩu, đọc là phương thức phổ biến nhất, sau đó đến đọc kết hợp với nói và cuối cùng là nói. Trong khi đọc, nói, nhà báo phải vận dụng các yếu tố tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ, nhịp độ. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vận dụng tốt các yếu tố ngữ điệu là cơ sở của một giọng đọc, nói tốt.
Liên quan đến việc đọc, nói trên sóng, nhà báo còn phải đặc biệt chú ý đến cách vận dụng các yếu tố ngữ âm khác như: chất giọng- âm sắc, sắc thái giọng đọc, nói, cách phát âm, biện pháp nhắc lại; cách kết hợp giọng trong chương trình và hệ chương trình.
Chương 4
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LỜI NÓI TRONG BÁO PHÁT THANH VIỆT NAM
4.1. NÊN SỬ DỤNG NGÔN TỪ TRONG LỜI NÓI PHÁT THANH NHƯ THẾ NÀO?
4.1.1. Về hướng sử dụng từ vựng trong lời nói phát thanh
4.1.1.1. Cần tăng cường tính dân gian, gia tăng ngôn ngữ đời sống trong lời nói phát thanh
Tăng cường sử dụng lớp từ KN văn hóa là việc làm cần thiết. Bởi nếu tăng cường từ ngữ KN, đồng nghĩa với việc tăng cường cho lời nói phát thanh những giá trị như: giúp lời nói đơn giản, dễ hiểu, gần gũi, thân mật, ngắn gọn, súc tích, tăng giá trị biểu cảm, đặc biệt, nó có khả năng tạo phong cách ngôn ngữ tác giả, đưa lời nói phát thanh tiến gần tới phong cách nói vốn là đặc điểm hướng tới của phát thanh hiện đại.
4.1.1.2. Nên tinh giản những từ ngữ mang màu sắc học thuật, “bác học” trong lời nói phát thanh
Nên sử dụng hạn chế thuật ngữ, từ chuyên ngành, danh pháp khoa học, từ ngữ chính trị, từ Hán-Việt xa lạ, khó hiểu. Đài TNVN cũng nên xây dựng 1 chương trình mới, ví dụ: Phổ biến ngôn ngữ mới để giới thiệu các thuật ngữ, từ chuyên ngành, từ Hán- Việt, từ viết tắt bằng tiếng Anh.
Chỉ nên sử dụng từ tiếng nước ngoài, từ tắt tiếng Anh trong 2 trường hợp: 1) không có từ tiếng Việt tương đương thay thế, 2) từ thay thế bằng tiếng Việt quá dài, hoặc không diễn đạt chính xác nội dung. Đối với các từ ngữ diễn đạt thông tin theo phong cách ngôn ngữ của người nước ngoài, khi chuyển ngữ, nhà báo cần chuyển sang phong cách nói năng của người Việt.
4.1.1.3. Nên tinh lọc lớp từ trung hòa về phong cách
Lớp từ trung hòa về phong cách nên được sử dụng chọn lọc. Cùng với đó, lớp từ KN văn hóa và lớp từ được ĐDVPC cần được sử dụng nhiều hơn. Cốt lõi để giải quyết vấn đề nằm ở dụng công ngôn từ và trình độ ngôn ngữ của nhà báo.
4.1.2. Về cách sử dụng câu trong lời nói phát thanh hiện nay
Hiện tượng sử dụng nhiều câu ghép, câu có ngữ đoạn xuôi chiều, hay câu có nhánh rẽ thông tin cần được hạn chế bằng một số biện pháp như tách câu ghép thành câu đơn, phân tách các ý, diễn đạt xuôi chiều theo cách nói năng của người Việt.
Về vấn đề độ dài của câu, sẽ là khả thi nếu hạn định dung lượng chuẩn là dưới 30 âm tiết/câu. Riêng với những chương trình ứng khẩu trực tiếp, những câu dài tới trên 60 âm tiết vẫn cần tránh.
4.2. NÊN VẬN DỤNG CÁC YẾU TỐ NGỮ ÂM TRONG KHI ĐỌC, NÓI TRÊN SÓNG PHÁT THANH HIỆN NAY RA SAO?
4.2.1. Nên sử dụng phương thức đọc, đọc kết hợp với nói và nói như thế nào là phù hợp?
Những tác phẩm mang tính chính luận như bình luận, xã luận, bài phân tích, phóng sự, bút ký, tản văn, ghi chép… thì nên đọc; nhưng những thể loại mang tính đối thoại, hội thoại, hoặc trong công việc dẫn nên sử dụng phương thức nói hoặc đọc kết hợp với nói; những thể loại phản ánh sự kiện bản thể một cách tức thì, trực tiếp như tin, phản ánh trực tiếp, ghi nhanh, tường thuật… thì cần nói ứng khẩu.
4.2.2. Nên đọc, nói với tốc độ như thế nào trên sóng phát thanh?
Có thể lấy tốc độ trung bình theo thể loại làm tốc độ tối đa, và tối thiểu là 185 âm tiết/phút (theo tốc độ đọc của thể loại bình luận). Cách thứ 2, có thể lấy tốc độ trung bình theo sắc thái thông tin, đối tượng giao tiếp làm hạn định tối đa.
4.2.3. Nên sử dụng chất giọng, âm sắc trên sóng phát thanh như thế nào?
4.2.3.1. Về chất giọng vùng miền
Cần phải xác định giọng chuẩn trên Đài phát thanh Quốc gia là tiếng phổ thông của quốc gia Việt Nam, vốn đã được xác định là tiếng Hà Nội, nhưng không có nghĩa là Đài Quốc gia chỉ sử dụng thứ tiếng chuẩn này. VOV nên tăng cường tỉ lệ giọng miền Trung, miền Nam (tất nhiên, giọng miền Bắc, chuẩn Hà Nội vẫn cần được sử dụng với tỉ lệ cao nhất).
4.2.3.2. Về âm sắc giọng nói trên sóng phát thanh Quốc gia
Có thể phân loại âm sắc giọng đọc, nói của nhà báo theo 3 cách: Phân loại âm sắc theo tiêu chí tuổi tác; Phân loại âm sắc theo nhóm nội dung, nhóm vấn đề; Phân loại âm sắc theo tính tức thì của sự kiện – chương trình trực tiếp và chương trình không trực tiếp.
4.2.4. Làm thế nào để phát âm tiếng nước ngoài thỏa đáng hơn?
Đài Tiếng nói Việt Nam nên biên soạn cuốn Cẩm nang nghiệp vụ phát thanh “Quy định cách đọc tên nước, thủ đô và tên một số tổ chức quốc tế trên Đài Tiếng nói Việt Nam tới tháng 10/2009” thành cuốn Cẩm nang điện tử để nhà báo tiện tra cứu. Nên cập nhật theo định kỳ nửa năm hoặc một năm/lần.
Tất cả các Phòng nên có quyển Kim từ điển tiếng nước ngoài giống nhau. Khi gặp từ mới, các nhà báo nên thống nhất đọc theo cách phát âm trong Kim từ điển đó. Ngoài ra, khi có những sự kiện quan trọng, Đài nên mở lớp tập huấn cho các PV, BTV, Bình luận viên về cách phát âm tên riêng tiếng nước ngoài.
4.2.5. Nên kết hợp giọng trong chương trình như thế nào?
Kết hợp nhiều giọng vẫn nên là xu thế tất yếu, nhưng vấn đề lệch tông giọng bất hợp lý cần được xử lý hợp lý. Trách nhiệm này trước hết thuộc về nhà báo, nhưng các Hệ nên thiết lập chức danh đạo diễn âm thanh để điều phối âm thanh trong tất cả các chương trình.
Để tránh tình trạng thông tin về người đọc, nói thường bị xóa nhòa như hiện nay, trước mỗi giọng đọc, người dẫn chương trình cần giới thiệu tên tác giả bài viết lẫn tên người thể hiện.
4.2.6. Có nên tăng cường tiếng động đi kèm lời nói?
Để lời nói hấp dẫn hơn, cần thiết phải gia tăng sử dụng tiếng động bằng cách tăng thời lượng và nâng cao chất lượng. Tất nhiên, tăng cường tiếng động nhưng phải hợp lý, trong mối liên hệ chặt chẽ với lời nói.
Tiểu kết chương 4
Từ vựng trong phát thanh hiện nay cần cần tăng cường sử dụng lớp từ KN, lớp từ được ĐDVPC, tiết chế tính học thuật và ngôn ngữ mang màu sắc bác học trong lớp từ ngữ thuộc PCV. Lớp từ ngữ THVPC cần được sử dụng một cách có chọn lọc, gọt giũa, hấp dẫn hơn.
Về câu cú, nhà báo nên sử dụng nhiều câu đơn hơn câu ghép, dùng câu 1-2 ý thay vì câu nhiều ý, nên sử dụng câu theo trật tự thuận... Về phương diện đọc, nói trên sóng, về cơ bản, nên phát huy phương thức đọc kết hợp với nói và phương thức nói. Chương 4 cũng đề xuất hướng sử dụng các phương tiện ngữ âm một cách hợp lý hơn trên sóng phát thanh.
KẾT LUẬN
1. Ở chương 1, chúng tôi trình bày về khái niệm ngôn ngữ, lời nói, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói, xác định các thành tố của lời nói. Giữa lời nói và ngôn ngữ có mối quan hệ thống nhất. Nếu coi ngôn ngữ là pho từ điển chung cho tất cả mọi người, thì lời nói là cách mỗi cá nhân sử dụng pho từ điển đó theo ý muốn giao tiếp chủ quan. Lời nói là ngôn ngữ ở dạng hoạt động, ngôn ngữ đang hành chức. Khi tạo lập lời nói, ngoài việc chú ý đến các phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, người nói còn phải chú ý đến mục đích giao tiếp, đối tượng giao tiếp, kênh giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp…
Trong báo phát thanh, lời nói chịu sự chế định chặt chẽ bởi đặc điểm và phương thức tác động của báo phát thanh. Để giao tiếp tốt bằng lời nói, nhà báo phát thanh phải xây dựng được những lời nói đáp ứng tiêu chí chính xác, đúng đắn, thẩm mỹ. Ngoài ra, lời nói phát thanh còn phải mang tính thời sự, tính cô đúc, tính đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, tính biểu cảm, tính sinh động, linh hoạt. Lời nói đó phải là dạng lời nói mang phong cách khẩu ngữ văn hóa: vừa đậm đà phong cách khẩu ngữ, vừa có dấu ấn rõ nét của phong cách sách vở.
Trong mục bàn về lời nói trong phát thanh, chúng tôi xác định lời nói là thành tố quan trọng nhất, chủ yếu nhất của ngôn ngữ phát thanh. Trong đó, lời nói của nhà báo có thời lượng sóng nhiều nhất - khoảng trên 70%. Thành tố của lời nói phát thanh gồm 2 phần: phần lời và phần tiếng. Hai thành tố này có mối quan hệ phụ thuộc và quyết định lẫn nhau. Vì vậy, để giao tiếp bằng lời nói phát thanh đạt hiệu quả cao, nhà báo không chỉ phải chú ý đến mặt ngôn từ, mà còn cần phải chú ý đến cách thức đọc, nói.
2. Trên cơ sở những kiến thức lý thuyết cơ bản đó, chương 2 tiếp cận cụ thể cách thức vận dụng yếu tố từ vựng, câu cú, gọi chung là cách thức sử dụng ngôn từ của lời nói ở Đài TNVN. Đứng ở bình diện sử dụng từ vựng, có thể thấy, do hệ thống từ vựng tiếng Việt được cấu tạo từ ba lớp từ cơ bản: lớp từ KN, lớp từ thuộc PCV, lớp từ THVPC, nên các lớp từ này đi vào lời nói phát thanh như lẽ tự nhiên. Ngoài 3 lớp từ trên, nhà báo Đài TNVN còn sử dụng lớp từ được ĐDVPC. Khảo sát đã chỉ ra, những từ được ĐDVPC thể hiện rất rõ năng lực sáng tạo ngôn từ của nhà báo, nhưng lại chưa được sử dụng nhiều, chỉ khoảng 2,2%.
Ở bình diện sử dụng câu, một số vấn đề đáng chú ý là: 1) Câu chủ động được dùng nhiều hơn câu bị động; 2) Câu ghép được dùng nhiều hơn câu đơn; 3) Câu từ 2 ý trở lên được dùng nhiều hơn câu có 1 ý; 4) Câu dài được sử dụng nhiều hơn câu ngắn. Trong phần này, chúng tôi còn khảo sát cách thức sử dụng ngữ đoạn trong lời nói phát thanh, hiện tượng sử dụng nhánh rẽ thông tin trong lời nói phát thanh, cũng như mối quan hệ giữa từ ngữ trong câu, giữa câu với phong cách tác phẩm, giữa câu với đối tượng giao tiếp...
3. Chương 3 của luận án tập trung khảo cứu cách thức đọc, nói của nhà báo phát thanh. Về phương thức thể hiện lời trên sóng, chúng tôi cho rằng, nhà báo Đài TNVN sử dụng 3 phương thức: đọc, đọc kết hợp với nói và nói ứng khẩu. Trong đó, phương thức đọc chiếm tỉ lệ chủ yếu, khoảng 63,7%. Phương thức đọc kết hợp với nói đứng thứ 2 với tỉ lệ 23,8%. Phương thức nói ứng khẩu thấp nhất, chỉ khoảng 12,5%.
Cũng trong chương 3, chúng tôi cố gắng khảo sát tất cả các yếu tố ngữ âm được nhà báo vận dụng để đọc, nói trên sóng. Trong tất cả các yếu tố được khảo sát, một số vấn đề đáng chú ý là: 1) Hiện nay, nhà báo phát thanh đang sử dụng tốc độ trung bình lên tới 250 âm tiết/ phút, nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ lời nói của phát thanh truyền thống. 2) Trong vận dụng yếu tố nhịp độ, nhà báo thường áp dụng lối ngắt nghỉ theo ngữ đoạn nhưng tình trạng ngắt nghỉ sai diễn ra thường xuyên. 3) Chất giọng được sử dụng trên sóng chủ yếu là chất giọng miền Bắc, chất giọng miền Trung và miền Nam chiếm tỉ lệ rất thấp, tổng cộng khoảng 16,8%. 4) Cách kết hợp nhiều giọng nói là phổ biến trong nhiều chương trình, ngược lại, người dẫn chương trình thường chỉ là dẫn đơn. 5) Cách phát âm tiếng nước ngoài còn nhiều điểm ”thắt”, chưa đạt được đến độ chuẩn cần thiết.
Nhìn chung, chất lượng đọc, nói ở Đài TNVN ổn định, nhưng chưa nhiều giọng đọc, nói đạt được phẩm cấp diễn cảm, biểu cảm.
4. Trên cơ sở khảo cứu thực trạng sử dụng ngôn từ, thực trạng đọc, nói ở chương 2 và chương 3, trong chương 4, chúng tôi cho rằng, có những vấn đề về mặt ngôn từ đang đặt ra: 1) Tỉ lệ từ ngữ KN và từ ngữ được ĐDVPC rất thấp, ngược lại, lớp từ ngữ THVPC được sử dụng với tỉ lệ cao. 2) Lớp từ ngữ thuộc PCV với cách sử dụng từ tiếng nước ngoài, từ thuật ngữ, từ chuyên ngành... có biểu hiện bị lạm dụng trong nhiều chương trình. 3)Vấn đề về cách sử dụng các dạng câu, dung lượng câu như thế nào cho phù hợp. Theo thiển ý của chúng tôi, nhà báo nên tận dụng lớp từ KN văn hóa, sử dụng có chọn lọc lớp từ thuộc PCV, tăng cường tính trong sáng, giàu đẹp, độc đáo của lớp từ THVPC và lớp từ được ĐDVPC, áp dụng lớp từ ĐTTLNBPT. Về phương diện câu cú, nhà báo cần đặt câu theo đúng cách nói năng của người Việt, loại bỏ lối diễn đạt thiếu chặt chẽ trong phong cách sinh hoạt hàng ngày, đảm bảo câu ngắn gọn, ít ý, đảm bảo sự phù hợp về thông tin giữa các câu trong tác phẩm…
Về phương diện đọc, nói trên sóng, chúng tôi tập trung trình bày quan điểm về những vấn đề đã đặt ra trong chương 3. Chẳng hạn, chúng tôi cho rằng, đúng như ý kiến của nhiều thính giả, mặc dù nói ứng khẩu, hoặc giả nói đang là thế mạnh của phát thanh hiện đại, nhưng mỗi thể loại, mỗi dạng chương trình lại cần một phương thức thể hiện phù hợp. Nhưng cho dù nói hay đọc, nhà báo cũng cần có nghệ thuật vận dụng các yếu tố ngữ điệu - vốn là phương tiện tạo tính biểu cảm. Thêm vào đó, nhà báo cũng cần rèn luyện cách phát âm, cách phối giọng, cách sử dụng âm sắc...
5. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi nhận thấy, thực trạng sử dụng lời nói của nhà báo phát thanh Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 5-2011.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Làm thế nào để ngôn ngữ báo chí đạt hiệu quả giao tiếp tốt nhất, Tạp chí Học viện Báo chí và Tuyên truyền, số 3 /2005.
2. Nhà báo với việc tìm ngôn từ cho bài viết, Tạp chí Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, số 5/2003.
3. Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người dẫn chương trình trong các diễn đàn phát thanh trực tiếp, Tạp chí Học viện Báo chí và Tuyên truyền, số 1/2006.
4. Chuyên đề: Thực trạng thể hiện lời nói trên Đài TNVN trong Đề tài Khoa học cấp Bộ: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng các chương trình Hệ VOV1 thông qua việc khảo sát nhu cầu thính giả” của Ban Thư ký Biên tập và Thính giả, Đài Tiếng nói Việt Nam, 10/ 2009.
5. Phát thanh tương tác – hướng phát triển tất yếu của phát thanh hiện đại, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số tháng 5/2010.
6. Chú trọng rèn luyện kỹ năng sử dụng lời nói cho nhà báo phát thanh, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 8/2010.
7. Các phương thức thể hiện lời nói trên sóng phát thanh, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 1+2/2011.