Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuyên ngôn Độc lập thể hiện tập trung sinh động tư tưởng yêu nước vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh - sợi chỉ đỏ xuyên suốt là lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” - đến nay vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi rọi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam, cũng như nhân dân tiến bộ trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ý chí, khát vọng độc lập, tự do - sự tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc, tư tưởng cốt lõi trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo là sự khái quát cao về khát vọng khẳng định chủ quyền dân tộc để xác lập quyền dân tộc và quyền con người trong thế giới đương đại. “Bản Tuyên ngôn Độc lập là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những con người anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường… Bản Tuyên ngôn Độc lập là một trang vẻ vang trong lịch sử Việt Nam”(1). Là minh chứng sống động dẫn dắt dân tộc trong tiến trình của cách mạng Việt Nam.

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập _Ảnh: Tư liệuMột là, Tuyên ngôn Độc lập - mạch nguồn ý chí, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc
Bản Tuyên ngôn Độc lập là sự đúc kết, phát triển đến đỉnh cao tư tưởng và truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc ta. Đó là bản anh hùng ca bất tử, hội tụ khí phách, sức lực và máu xương của nhân dân Việt Nam. Đó là sự thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng tâm nhất trí để vươn tới sự khẳng định mình, với tư cách một quốc gia, dân tộc với lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước - chủ nghĩa dân tộc, mà cốt lõi là ý chí độc lập và khát vọng tự do được phát huy trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc đã tạo nên “động lực lớn của đất nước”. Cũng nhờ ý chí độc lập và khát vọng tự do, đã động viên được cả dân tộc tham gia vào cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, lấy ít đánh nhiều, chuyển yếu thành mạnh, sẵn sàng gạt bỏ mọi lợi ích riêng, đoàn kết toàn dân tộc, bất chấp mọi gian nan, thử thách, kể cả hy sinh tính mạng, của cải vì độc lập của dân tộc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: “nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng”(2).
Xuất phát từ lòng yêu nước, từ sự đồng cảm sâu sắc với đồng bào bị áp bức, trong những năm bôn ba ở nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi đau mất nước, nỗi thống khổ bị xâm lược, bị đô hộ và bị bóc lột không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở rất nhiều dân tộc khác trên thế giới. Người hiểu rằng, độc lập, tự do luôn là khát vọng cháy bỏng của mỗi con người, của mỗi dân tộc bị áp bức, Người viết: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”(3). Đấu tranh vì độc lập, tự do là mục đích suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả cuộc đời Người chỉ có một ham muốn, “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”(4). Vì vậy, điều mà Người cần nhất trên đời là “đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Cách mạng Tháng Tám thành công là thắng lợi của sức dân, lòng dân, trí dân, khát vọng của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là kết quả của quá trình đấu tranh “bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn tám mươi năm nay”(5).
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 như một mốc son, bước ngoặt của lịch sử dân tộc, là sự kết tinh của khát vọng giải phóng dân tộc trong suốt quá trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Suốt chiều dài lập quốc của dân tộc, các bậc hiền nhân đã để lại nhiều kiệt tác mang tầm vóc và ý nghĩa, như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt thế kỷ XI, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi thế kỷ XV, nhưng phải đến Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 mới khẳng định tính chính danh, văn kiện pháp lý quan trọng tuyên bố với nhân dân Việt Nam và thế giới về chủ quyền và quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án, tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân và khẳng định quyền độc lập của dân tộc
Chủ nghĩa đế quốc thực hiện chính sách xâm lược, biến nhiều dân tộc châu Á, châu Phi và châu Mỹ thành thuộc địa. Từ đó, tạo ra sự đối lập, sự bất bình đẳng lớn nhất trong lịch sử nhân loại giữa các dân tộc đi áp bức và các dân tộc bị áp bức. Các nước đế quốc tự cho mình là “dân tộc thượng đẳng”, là “mẫu quốc”, đi khai hóa văn minh cho các dân tộc lạc hậu. Tuy nhiên, trên thực tế lại thực hiện chính sách cai trị, bóc lột dã man. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác của bọn tư bản đối với nhân dân thuộc địa. Về chính trị, chúng tước đoạt hết quyền tự do dân chủ, luật pháp dã man, chia để trị, đàn áp khủng bố, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc nhân dân thuộc địa bằng rượu cồn và thuốc phiện “để làm cho nòi giống ta suy nhược”. Nếu Nguyễn Trãi trong Bình ngô đại cáo đã vạch rõ tội ác của quân Minh, “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”; thì hơn 500 năm sau, trong Tuyên ngôn Độc lập Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khắc họa rõ nét hơn tội ác của kẻ thù: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”(6). Về kinh tế, thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân nghèo nàn, thiếu thốn, xơ xác, tiêu điều. “Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu./ Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng./ Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng”(7). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp, phát xít Nhật, tố cáo chủ nghĩa thực dân đã vi phạm thô bạo quyền tự do, độc lập và bình đẳng của các dân tộc. Vì vậy, đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn liền với đấu tranh giành quyền tự do, dân chủ của nhân dân, không chỉ riêng đối với dân tộc Việt Nam, mà còn đối với tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa. Bản Tuyên ngôn Độc lập tố cáo và lên án tội ác của thực dân Pháp, vì 80 năm qua, chúng đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”, thực hiện chính sách cực kỳ phản động trên tất cả các mặt. Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, “thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích”, “đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”(8).
Bản Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bằng việc công bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới quyền dân tộc tự quyết của mình thông qua việc trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(9) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Từ quyền mỗi con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền của các dân tộc, suy rộng ra “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(10). Đây được coi là những quyền hiển nhiên, vốn có, không thể xâm phạm của các dân tộc. Như vậy, với câu “suy rộng ra”, bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ định vị được nền độc lập của dân tộc Việt Nam tự mình giành được trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, mà còn khẳng định triển vọng cho các dân tộc bị áp bức thoát khỏi ách thuộc địa của các đế quốc phương Tây. Đây là một đóng góp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các dân tộc trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ việc xác nhận và đề cao lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền để đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân là độc lập dân tộc.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam, khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc. Đó không chỉ dành riêng cho dân tộc Việt Nam, mà là sự cổ vũ, lời khẳng định thiêng liêng của tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa. Không chỉ có ý nghĩa dân tộc, mà còn có ý nghĩa thời đại, giá trị thời đại được thể hiện trong triết lý xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.
Ba là, khẳng định ý chí, sức mạnh của dân tộc trong bảo vệ nền độc lập, tự do
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định giá trị của độc lập, tự do là thành quả của cuộc đấu tranh chính nghĩa lâu dài, nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh xương máu mới giành lại được: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”, “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(11). Đây được coi là chân lý hiển nhiên, “là lẽ phải không ai chối cãi được”, bất di bất dịch của dân tộc Việt Nam. Độc lập, tự do là quyền tự nhiên, quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia, dân tộc. Đó là quyền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn, độc lập về mọi mặt, về chính trị, kinh tế, văn hóa, về chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, được thực hiện một cách triệt để theo nguyên tắc nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc về chủ quyền quốc gia phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài. Độc lập đó phải được thể hiện bằng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Tuyên ngôn Độc lập là bản hùng ca thời đại Hồ Chí Minh, phản ánh ý chí và khát vọng độc lập, tự do của cả một dân tộc từ thời Hùng Vương dựng nước. Suốt chiều dài hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã luôn đấu tranh cho quyền độc lập, tự do ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân cho nền văn hiến của Việt Nam - một dân tộc luôn coi trong bậc nhất giá trị độc lập, tự do và sẵn sàng xả thân để giữ vững giá trị đó.
Ý chí, khát vọng độc lập, tự do là động lực, nền tảng cho sự phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hy sinh cả cuộc đời mình đấu tranh cho nền độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. “Thế kỷ XX được xem là thế kỷ phi thực dân hóa, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân - một vết nhơ lớn nhất trong lịch sử của nhân loại. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc tiên phong trong việc xóa bỏ vết nhơ đó”(12).
Độc lập, tự do là khát vọng thiêng liêng nhất của dân tộc, là ngọn cờ dẫn dắt toàn dân tộc, khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và trí tuệ con người Việt Nam, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của việc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, thắng lợi của khát vọng độc lập, tự do với quyết tâm: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(13). Thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp với ý chí quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(14) và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ với quyết tâm “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(15).
Trong bối cảnh mới, bài học về khát vọng độc lập, tự do vẫn còn nguyên giá trị. Thấm nhuần những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(16). Đây là yêu cầu cấp thiết của toàn Đảng và hệ thống chính trị, tạo động lực để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Muốn vậy, cần thực hiện tốt các yêu cầu có tính nguyên tắc sau:
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong kỷ nguyên phát triển của dân tộc
Giá trị cốt lõi của khát vọng độc lập, tự do là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng đó, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên, giành những thắng lợi lịch sử mang tầm thời đại. Trong bối cảnh mới, Đảng ta đã khẳng định: “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào phải kiên định đường lối và mục tiêu đổi mới…, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”(17) là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội thực sự đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đây cũng chính là cội nguồn của mọi thắng lợi trong quá trình đổi mới ở nước ta. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nêu quan điểm: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(18).
Trong giai đoạn hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải được nhận thức toàn diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh quốc gia, đến độc lập về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo đức xã hội. Không thể có và không thể chấp nhận quan điểm nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia; việc rao giảng nhân quyền của một số nước phương Tây thực chất là một hình thức mị dân, lấy cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Không thể có độc lập, tự do về chính trị, nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Không thể giữ vững độc lập, tự chủ, nếu lối sống và đạo đức xã hội bị suy thoái, văn hóa dân tộc bị mai một, lai căng. Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cần chú ý một số nguyên tắc có tính chất phương pháp luận: Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, trước hết phải bằng nội lực của đất nước, không lệ thuộc vào bên ngoài, nhưng biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để tăng nguồn lực phát triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược. Hai là, trên cơ sở nhận thức toàn cầu hóa, hội nhập về kinh tế là một tất yếu khách quan, từ đó xác định rõ các bước đi và chủ động hội nhập phù hợp với năng lực của đất nước. Hội nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước và làm giàu bản sắc dân tộc. Ba là, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phải được thực hiện trong suốt quá trình cách mạng, trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc - động lực để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề đặt ra là, làm sao để giữ vững độc lập dân tộc, không đánh mất mình trong quá trình hội nhập. Đặt mình trong sự giao lưu hợp tác quốc tế và phát triển, nhưng không để mất chủ quyền độc lập dân tộc. Có thể khẳng định, giành lại tự do, độc lập là khát vọng cháy bỏng của các dân tộc bị áp bức trong thế kỷ XX và Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiến sĩ tiên phong trong việc thức tỉnh dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh cho độc lập dân tộc và phẩm giá của con người. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mãi giữ nguyên giá trị thời đại “trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất tự do” và “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Chân lý ấy đã thắp lên ngọn lửa khát vọng của dân tộc không chịu làm nô lệ, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, vượt qua bao gian khó, từng bước khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân tại Khu Di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào, xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang _Ảnh: Tư liệuDo đó, phải không ngừng bồi đắp lòng tự hào dân tộc, tạo niềm tin trong xã hội về con đường phát triển của đất nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Từ đó, lan tỏa cảm hứng và động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng “thế trận lòng dân” để “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”. Xây dựng mối quan hệ quốc tế tích cực, với tinh thần độc lập, tự chủ, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Sự tự tin và lòng tự hào dân tộc, thế và lực của đất nước đi lên sẽ thúc đẩy quan hệ quốc tế tích cực, kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế, dân tộc và thời đại để phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Thứ ba, xây dựng các điều kiện để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, trước tiên cần xây dựng, củng cố vững chắc hệ thống chính trị, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo, thực sự là đội tiên phong, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ và năng lực lãnh đạo, có tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của cách mạng Việt Nam. Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trước hết là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, làm cho Đảng thật sự là đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, là lực lượng tiên phong dẫn dắt dân tộc. Trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ càng là vấn đề thiết yếu. Đảng là chủ thể lãnh đạo xã hội và Nhà nước, là hạt nhân của hệ thống chính trị, muốn mạnh về chính trị thì đồng thời Đảng phải mạnh cả về tư tưởng, tổ chức, cán bộ và trong sạch, gương mẫu về đạo đức.
Nâng cao vai trò và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng khi đất nước chuyển mình. Đây là một giai đoạn có nhiều cơ hội, thuận lợi, song cũng có không ít thách thức, khó khăn; vì vậy, cần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, hiện đại, phục vụ và kiến tạo phát triển. Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để tiếp tục đóng góp quan trọng trong việc xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nhằm bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ tư, xây dựng đất nước phát triển về mọi mặt, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân
Để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đòi hỏi phải xây dựng nội lực đủ mạnh, trước hết phải xây dựng được một nền kinh tế độc lập, tự chủ trên nền tảng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động tất cả các nguồn lực trong nước và bên ngoài. Ưu tiên phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn được coi là xu hướng phát triển tất yếu trong bối cảnh nguồn nguyên nhiên liệu ngày càng khan hiếm, tình trạng ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng biến đổi khí hậu khó lường hiện nay. Việc phát triển nền kinh tế xanh hay phát triển nền kinh tế tuần hoàn là phương tiện và là kết quả để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm phát triển nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, phòng, chống “xâm lăng” văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa. Phát triển văn hóa là nền tảng, động lực phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng xây dựng văn hóa chính trị, nâng cao năng lực, bản lĩnh văn hóa, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa kế thừa và phát triển. Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình Việt Nam và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời đại mới, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững.
Tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh dân tộc vững chắc để hội nhập. Chú trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh để bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia, dân tộc. Quán triệt nguyên tắc đổi mới là lấy lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc và hạnh phúc của nhân dân là trên hết, trước hết. Đổi mới phải nhằm hướng tới sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là bản chất nhân văn, là giá trị bền vững và sức sống mãnh liệt của kỷ nguyên phát triển theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bản Tuyên ngôn Độc lập là bài học về ý chí, khát vọng độc lập, tự do cho mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trong việc lựa chọn con đường phát triển và cũng là khát vọng mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh. Ý chí, khát vọng đó trở thành mục tiêu xuyên suốt hành trình cách mạng của Người để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc, con đường đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Bởi theo Người, “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(19). Trải qua 80 năm, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là bản tuyên bố chính trị của dân tộc Việt Nam với các nước trên thế giới, mà còn là biểu tượng tinh thần, tư tưởng, ý chí bất khuất, khát vọng tự do - mãi mãi là nguồn cảm hứng cho các thế hệ người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
PGS, TS Phạm Minh Sơn - TS Mai Việt Bách
Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Tạp chí Cộng sản
………………………………
(1) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Trẻ. Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr. 122
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. 1, tr. 98
(3) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 52
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 187
(5) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 122
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 2
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 2
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 2
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 1
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 1
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 3
(12) Đặng Công Thành: “Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong tư tưởng Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và định hướng thực tiễn xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 16-8-2022, https://www.tapchicongsan.org.vn/en/web/guest/tieu-iem1/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/chan-ly-khong-co-gi-quy-hon-doc-lap-tu-do-trong-tu-tuong-ho-chi-minh-gia-tri-ly-luan-va-dinh-huong-thuc-tien-xay-dung-dat-nuoc-hung-cuong-phon-vinh-ha
(13) Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 2, tr. 255
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 534
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 131
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 34
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 21
(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 109
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64