Sign In

Lượt người đang truy cập: -93

Lượt truy cập trong ngày:68

Lượt truy cập tháng này:30,156

Tổng số lượt đã truy cập: 70,062

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

18:19 01/03/2025

Chọn cỡ chữ A a  

Qua gần 40 năm đổi mới, trên phương diện quản lý phát triển xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, giải quyết việc làm, phát huy tiềm năng sáng tạo của các tầng lớp nhân dân... Bên cạnh đó, thực tiễn quản lý phát triển xã hội còn không ít hạn chế, yếu kém đòi hỏi phải kịp thời khắc phục mới có thể phát triển đất nước nhanh và bền vững. Từ thực tế đó, Đảng ta xác định, phải “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả”(1), xem đó là một trong những nội dung để thực hiện đột phá chiến lược “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam trong giai đoạn tới.

Các đại biểu biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam_Ảnh: TTXVN

Do tính chất đặc thù về bối cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ta, các chủ thể trong mô hình quản trị quốc gia của Việt Nam bao gồm: hệ thống chính trị, hệ thống doanh nghiệp, hệ thống các tổ chức xã hội và người dân, hệ thống cơ quan báo chí và truyền thông... Nghĩa là, mô hình quản trị quốc gia của Việt Nam sẽ không phải mô hình đơn chủ thể, tuyệt đối hóa vai trò quản lý đối với mọi lĩnh vực xã hội của một chủ thể duy nhất là nhà nước, mà đòi hỏi có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau trong quản trị các mặt, các lĩnh vực vốn rất đa dạng của đời sống xã hội.

Tuy nhiên, vai trò, vị trí và chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể trong hệ thống quản trị quốc gia sẽ không hoàn toàn như nhau, mà mỗi chủ thể sẽ có vai trò, vị trí và thực hiện chức năng, nhiệm vụ khác nhau, thể hiện trong từng lĩnh vực và điều kiện cụ thể. Do đó, vấn đề quan trọng là phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các chủ thể, tránh bao biện làm thay hoặc chồng lấn chức năng, nhiệm vụ, ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị quốc gia.

Để xây dựng, từng bước hoàn thiện mô hình quản trị quốc gia hiện đại, đổi mới và không ngừng nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia theo tinh thần Đại hội XIII đã xác định, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:

Một là, nhất quán quan điểm về mục tiêu xây dựng, đổi mới quản trị quốc gia của Việt Nam theo hướng hiện đại, hiệu quả là nhằm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong bối cảnh mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Mọi hoạt động của các chủ thể trong hệ thống quản trị quốc gia suy cho cùng, đều phải hướng đến mục tiêu trên, lấy đó làm tiêu chí quan trọng để đánh giá tính hiệu quả của quản trị quốc gia ở Việt Nam hiện nay.

Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng những vấn đề nảy sinh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội với một hệ thống thể chế, quy trình, phương thức khoa học, dân chủ; qua đó, giảm thiểu sự mâu thuẫn lợi ích, xung đột giá trị, tăng cường đồng thuận xã hội, sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia dân tộc, góp phần quan trọng đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN vào giữa thế kỷ XXI.

Hai là, kế thừa có chọn lọc các nguyên tắc của quản trị tốt, với những giá trị cốt lõi và tính ưu việt đã được cộng đồng quốc tế công nhận, cụ thể là:

Bảo đảm sự tham gia của nhân dân, tăng cường sự đồng thuận. Huy động sự tham gia tích cực của các chủ thể xã hội vào hoạt động quản trị quốc gia sẽ khai thác, phát huy được tiềm năng, nguồn lực của mọi chủ thể, củng cố lòng tin của nhân dân vào tính hiệu quả của quản trị. Mặt khác, việc nhân dân tham gia vào quá trình hoạch định chủ trương, đường lối, quyết sách của các cấp chính quyền sẽ góp phần bảo đảm dân chủ, tính hiệu quả và sự bền vững của quản trị quốc gia.

Nhà nước pháp quyền: Nhà nước “có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả”(2).

Trách nhiệm giải trình: Các cơ quan trong hệ thống chính trị, những người được giao nắm giữ và thực thi quyền lực công phải chịu trách nhiệm và có nghĩa vụ giải trình trách nhiệm của mình trước cấp trên, trước các cơ quan dân cử, tổ chức xã hội, các chủ thể có liên quan và nhân dân về các chủ trương, chính sách, quy định pháp luật và các quyết sách cũng như tính hiệu quả trong các hoạt động của mình một cách rõ ràng, công khai.

Sự minh bạch: Bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động quản lý của Nhà nước; quá trình hoạch định, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện các quyết sách của Nhà nước phải tuân thủ pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin của các chủ thể khác. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Nhà nước chủ động công khai các thông tin liên quan đến quyền lợi trực tiếp của doanh nghiệp và người dân, bảo đảm các thông tin về những quyết sách và hoạt động của Nhà nước được công bố đầy đủ, cập nhật, công khai, dễ tiếp cận đối với doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân.

Hiệu lực, hiệu quả: Hiệu lực trong quản trị quốc gia, tức là việc bảo đảm các chính sách, quy định, pháp luật được các chủ thể tiếp nhận và tuân thủ trên cơ sở của sự đồng thuận. Hiệu quả của quản trị quốc gia đòi hỏi phải vừa khơi thông, phát huy được các nguồn lực, vừa sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực cho sự phát triển, bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng tốt các nhu cầu của xã hội và người dân.

Ba là, kế thừa và phát huy vai trò tích cực của các thiết chế xã hội truyền thống, phù hợp với yêu cầu đất nước trong bối cảnh thời đại mới.

Với sự tồn tại lâu dài của cấu trúc làng xã cổ truyền Việt Nam trong lịch sử, mối quan hệ giữa các cá nhân và giữa cá nhân với cộng đồng không chỉ được điều chỉnh bởi pháp luật của Nhà nước mà còn chịu sự tác động và được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức và hệ thống lệ làng, hương ước.

Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, như: tính cục bộ địa phương, cục bộ dòng họ; tư tưởng địa vị ngôi thứ, tác phong gia trưởng, bệnh gia đình chủ nghĩa, các hủ tục lạc hậu... dẫn đến xem nhẹ pháp luật, hạn chế và vi phạm quyền tự do cá nhân, các thiết chế xã hội truyền thống cũng có những mặt tiến bộ nhất định, như: đề cao tinh thần trách nhiệm của con người trước cộng đồng làng xã; tinh thần dân chủ làng xã, vai trò tự quản của cộng đồng trong việc giữ gìn an ninh trật tự, củng cố tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái dựa trên tình làng nghĩa xóm, giải quyết những tranh chấp và nhiều vấn đề tế nhị, phức tạp trong phạm vi làng xã mà pháp luật của Nhà nước không thể vươn tới và bao quát hết.

Do đó, quá trình xây dựng mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi, phải vừa khắc phục ảnh hưởng tiêu cực, vừa kế thừa, phát huy vai trò và ảnh hưởng tích cực của các thiết chế xã hội truyền thống, bảo đảm sự gắn kết giữa hiện đại và truyền thống một cách hài hòa, hợp lý.

Bốn là, tiếp tục tập trung giải quyết tốt “mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đại biểu cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, là những bộ phận hợp thành hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, đồng thời cũng là những chủ thể có vai trò quan trọng trong mô hình quản trị quốc gia, tham gia vào các lĩnh vực của quản trị, có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến mục tiêu, hiệu quả của quản trị quốc gia. Trên cơ sở phân định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể mới có thể giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa các chủ thể đó để tránh bao biện làm thay, đồng thời khắc phục sự chồng lấn về chức năng, nhiệm vụ, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của mỗi chủ thể, qua đó góp phần xây dựng mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở nước ta.

Trước hết, cần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, theo hướng “giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng”; “Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”; “Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; đồng thời “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ... Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(3) là điều có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, tạo lập mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam nói riêng.

Mặt khác, cần tiếp tục xây dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là “Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”. Để thực hiện điều đó, nhiệm vụ trọng tâm đặt ra là phải “Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Ðẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”(4).

Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh sự phân cấp, phân quyền một cách phù hợp, theo hướng “Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa Trung ương và địa phương, bảo sự sự tập trung thống nhất quản lý của Trung ương và phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương. Hoàn thiện cơ chế phân cấp đầu tư, ngân sách, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch phát triển và cân đối nguồn lực. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương bảo đảm phục vụ tốt nhất người dân, doanh nghiệp”(5).

Xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện, mục đích cuối cùng là nhằm thực hành dân chủ, bảo đảm nhân dân thực sự là chủ thể và là trung tâm của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả nói riêng. Do đó, cần nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân, nhất là những người có trách nhiệm cao trong hệ thống chính trị; bảo đảm phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được hiện thực hóa; lấy sự hài lòng và tín nhiệm của nhân làm tiêu chí căn bản để đánh giá năng lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành của các cá nhân, tổ chức.

Năm là, tiếp tục nghiên cứu và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, bảo đảm hài hòa lợi ích, phát huy tốt vai trò tích cực của mỗi chủ thể.

Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước cho thấy, những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, cần tập trung giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Một trong mười mối quan hệ lớn được Đại hội XIII xác định là, phải “giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân”(6). Đây cũng chính là các yếu tố, các chủ thể quan trọng cấu thành mô hình quản trị quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Xác định đúng vai trò, vị trí, chức năng và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa các chủ thể đó sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng, từng bước hoàn thiện mô hình quản trị quốc gia Việt Nam hiện đại, hiệu quả. Tuy nhiên, việc đòi hỏi phải xác lập mối quan hệ “đối xứng”, “đồng đẳng”, ngang bằng theo kiểu bình quân về vai trò và chức năng, quyền hạn giữa các chủ thể đó sẽ là không phù hợp, phi thực tế.

Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội được biểu hiện trên nhiều phương diện, như: mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và các đối tượng quản lý, mối quan hệ giữa các chủ thể cùng tham gia thị trường, mối quan hệ giữa nguồn lực nhà nước với nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội, mối quan hệ giữa lợi ích công với lợi ích doanh nghiệp và lợi ích cá nhân... Giải quyết hài hòa các mối quan hệ trên sẽ góp phần phát huy lợi thế, đồng thời bổ sung, bù đắp các thiếu hụt, khiếm khuyết để tối ưu hóa mục tiêu của quản trị quốc gia. Để giải quyết tốt mối quan hệ trên, đòi hỏi phải xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của từng chủ thể, trên cơ sở đó mới có thể bảo đảm mỗi chủ thể thực hiện hiệu quả các vai trò, nhiệm vụ để vừa bổ sung, hỗ trợ, vừa góp phần khắc phục các hạn chế, khiếm khuyết của mỗi chủ thể.

Trong mô hình quản trị quốc gia ở Việt Nam, Nhà nước có vai trò “xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn... phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường”(7).

Yêu cầu đặt ra là, phải phát huy vai trò của Nhà nước trong việc kiến tạo môi trường thể chế thuận lợi, minh bạch trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường, tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp hoạt động phù hợp với quy luật thị trường, tuân thủ đúng pháp luật. Do đó, cần tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn theo hướng “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số;... Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp các ngành”(8).

Để phát huy tốt vai trò của thị trường trong mô hình quản trị quốc gia ở nước ta, cần xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém”(9).

Cùng với đó là phải phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, tạo điều kiện và môi trường, cơ chế để “các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường”, bảo đảm “Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật”(10).

Thực tế cho thấy, Nhà nước, thị trường và xã hội là các chủ thể có vai trò quan trọng trong quản trị quốc gia, mỗi chủ thể có thế mạnh riêng, song bản thân mỗi chủ thể, do tính chất và đặc trưng nhiệm vụ khác biệt nên đều có những giới hạn và khiếm khuyết nhất định. Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả để có thể bổ sung cho nhau, khắc phục các khiếm khuyết, bảo đảm tính hiệu quả trong xây dựng mô hình quản trị quốc gia ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc, vì sự phát triển nhanh và bền vững đất nước lên trên hết; Nhà nước tác động vào thị trường và xã hội trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan của thị trường và xã hội, không làm những gì thị trường và xã hội đang làm hiệu quả; đồng thời bảo đảm hài hòa giữa lợi ích công với lợi ích doanh nghiệp, lợi ích cá nhân. Phát huy vai trò của người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng trong xây dựng, phản biện, giám sát thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật.

Sáu là, phát huy vai trò của các cơ quan báo chí và truyền thông trong xây dựng mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.

Các cơ quan báo chí và truyền thông cũng là một trong những chủ thể quan trọng của mô hình quản trị quốc gia ở Việt Nam, do đó cần phát huy vai trò, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của chủ thể này, nhất là trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự bùng nổ thông tin trên không gian mạng hiện nay.

Các cơ quan báo chí và truyền thông có vai trò to lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến để toàn xã hội nhận thức sâu rộng về tính tất yếu và tầm quan trọng của việc xây dựng mô hình quản trị quốc gia, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong xu thế mới của thời đại.

Mặt khác, việc cung cấp các thông tin kịp thời, cập nhật, chính xác của các cơ quan này sẽ góp phần kết nối các chủ thể trong hệ thống quản trị, tham gia vào quá trình hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách và đưa chủ trương, đường lối, chính sách vào cuộc sống; đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho việc tham gia giám sát, phản biện xã hội đối với năng lực và hiệu quả hoạt động của các chủ thể, qua đó nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể đó trước nhân dân, góp phần đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và thúc đẩy dân chủ hóa các mặt của đời sống xã hội.

Do vậy, cần nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của những người làm công tác báo chí, truyền thông; “Xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại... Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”(11).

Bảy là, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, nâng cấp nền tảng công nghệ quốc gia, đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ số, xã hội số để từng bước tạo lập mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.

Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển rất mạnh mẽ, tác động to lớn, làm thay đổi cách thức tư duy, giải quyết vấn đề trên tất cả các phương diện của cuộc sống, đòi hỏi mô hình quản trị quốc gia hiện đại phải là mô hình quản trị thông minh, kết nối, chia sẻ thông tin, chia sẻ tri thức. Do đó, cần đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới có thể xây dựng được một “thể chế thông minh, bộ máy quản trị thông minh, nhân lực quản trị thông minh, phương thức quản trị thông minh, giám sát thông minh...”, tạo điều kiện tối ưu cho việc giải phóng các nguồn lực, đổi mới sáng tạo, kết nối chính quyền với doanh nghiệp, người dân vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Mặt khác, việc đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ sẽ thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm; nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình của các chủ thể; công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; minh bạch tải sản, thu nhập của cán bộ, công chức, góp phần phòng chống tham nhũng, tiêu cực; bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của quản trị quốc gia, củng cố niềm tin của nhân dân.

_________________

(1), (3), (6), (7), (8), (9), (10), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.203, 200, 100, 130-131, 132, 131, 131-132, 146.

(2) https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-27-nqtw-ngay-09112022-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-xay-dung-va-9016.

(4) ĐCSVN: Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Hà Nội, 2022.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.311.

GS, TS. LÊ VĂN LỢI
Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo lyluanchinhtri

Nội dung trong tệp đính kèm

Ý kiến

Tư tưởng, tấm gương và phong cách báo chí Hồ Chí Minh

Tư tưởng, tấm gương và phong cách báo chí Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà báo vĩ đại, khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam. Người để lại cho chúng ta khối lượng đồ sộ, nhiều thể loại các tác phẩm báo chí; hệ thống quan điểm tư tưởng, lý luận toàn diện và sâu sắc về báo chí cách mạng Việt Nam và phong cách nghề nghiệp của người làm báo. Bài viết khái quát những cống hiến chủ yếu của Người trên lĩnh vực báo chí nhằm hưởng ứng cuộc vận động “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh” hiện nay, góp phần xây dựng nền báo chí Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại theo chủ trương Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Học tập suốt đời

Học tập suốt đời

Cách mạng khoa học - công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, tạo nên sự biến cách to lớn trong đời sống xã hội, đặt ra những yêu cầu mới, nhu cầu mới, nhiệm vụ mới, suy nghĩ mới, hành động mới với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt đối với cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhất là tận dụng tối đa thời cơ, vận hội, đi tắt đón đầu, đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Để thực hiện thắng lợi yêu cầu, nhiệm vụ, trọng trách trong giai đoạn mới, học tập suốt đời để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, để trở thành những người hữu dụng đang là đòi hỏi cấp thiết đối với từng cá nhân, mỗi công dân, đặc biệt là những cán bộ, nhân viên trong hệ thống chính trị.
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Xây dựng Đảng về đạo đức là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa tư tưởng của Người và vận dụng trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Bài viết khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về đạo đức và việc vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào thực tiễn xây dựng Đảng về đạo đức.