Thành tựu, hạn chế về nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn qua 50 năm đất nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội
Sự kiện đất nước thống nhất (ngày 30-4-1975) đánh dấu việc hiện thực hóa khát vọng độc lập, thống nhất đất nước, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại 50 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng về lý luận và thực tiễn, cụ thể như sau:
Một là, rút ra bài học kinh nghiệm lớn từ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cụ thể, từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống thực dân Pháp, kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước; khẳng định tính đúng đắn việc Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; khẳng định thắng lợi to lớn của sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), người vun trồng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, coi trọng việc tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Đảng và của dân tộc, tiếp thu kinh nghiệm của các đảng anh em, tinh hoa trí tuệ của thời đại, đề ra đường lối, chính sách độc lập, tự chủ để lãnh đạo thắng lợi cách mạng Việt Nam.
Hai là, hình thành và phát triển lý luận về đường lối đổi mới. Giai đoạn đầu sau khi đất nước thống nhất, bên cạnh nhiều thành tựu không thể phủ nhận, đất nước ta gặp phải một số sai lầm: Áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội của một số nước về kế hoạch hóa, tập trung, chủ quan, duy ý chí trong phát triển kinh tế, không phù hợp với điều kiện của Việt Nam; không phát huy tốt vai trò của các thành phần kinh tế, nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất phát triển (công hữu về tư liệu sản xuất, quản lý tập trung, bao cấp) vượt quá xa so với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất; quản lý kinh tế mang nặng tính quan liêu, hành chính, hình thức, không chú ý đến năng suất, chất lượng, hiệu quả. Sự nóng vội này dẫn đến hậu quả, sản xuất đình đốn, năng suất thấp, đời sống nhân dân khó khăn, khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Từ thực tiễn của đất nước, vào năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước. Từ đó, “đổi mới” trở thành thuật ngữ trong các từ điển, văn bản quan trọng của quốc tế khi nói về Việt Nam. Đây là điểm đột phá với một hệ thống lý luận ngày càng hoàn thiện, là cơ sở quan trọng làm nên những thành tựu to lớn của đất nước hiện nay.
Ba là, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng rõ, hoàn thiện. Qua 50 năm đất nước thống nhất, với gần 10 nhiệm kỳ đại hội, Đảng đã xác định rõ mục tiêu, đặc trưng, phương hướng cơ bản và các quan hệ lớn mang tính quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác định: Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng cơ bản cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, xây dựng nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Đồng thời, khẳng định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau. Cương lĩnh cũng đề ra mô hình tổng quát, 6 đặc trưng về chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, 7 phương hướng cơ bản xây dựng đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội với 8 đặc trưng, 8 phương hướng; bổ sung nhận thức về mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Bốn là, nhận thức về các mối quan hệ lớn có nhiều bổ sung mới. Đây là vấn đề có tính quy luật trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tầm khái quát cao về lý luận, tôn trọng quy luật khách quan, định hướng cho việc giải quyết các mâu thuẫn trong quá trình phát triển. Từ bài học thành công và thất bại của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt từ thực tiễn đất nước sau 40 năm đất nước thống nhất, tại Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta đã nhận diện các mối quan hệ mang tính quy luật, như quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường (sau đó, mối quan hệ này được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII điều chỉnh thành “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”); giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII của Đảng bổ sung mối quan hệ lớn giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, hợp thành 10 mối quan hệ lớn có tính quy luật của đổi mới và phát triển ở Việt Nam.
Năm là, xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam, chỉ rõ đặc trưng của mô hình về mục đích, chế độ kinh tế, cơ chế vận hành, chế độ phân phối. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các yếu tố thị trường, các loại thị trường tiếp tục được hoàn thiện; nguồn lực được phân bổ chủ yếu qua thị trường, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng cao. Nội hàm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được làm rõ, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế; vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình, thịnh vượng của dân tộc, nhiều vấn đề lý luận mới tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện gắn với đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia...
Sáu là, có những điều chỉnh cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; phát triển nhanh và bền vững. Ngay từ khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta xác định phải tiếp tục xây dựng tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nội dung công nghiệp hóa được Đảng gắn chặt với hiện đại hóa, với mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu hướng về xuất khẩu, coi thị trường bên ngoài là một yếu tố giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển. Xác định rõ đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo phương thức rút ngắn, vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; coi phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là nguồn lực, động lực để phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn...
Nền kinh tế độc lập, tự chủ đòi hỏi sự độc lập, tự chủ trong chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển; trong bảo đảm nguồn lực; trong tổ chức thực hiện, thích ứng với yêu cầu hội nhập, phát triển và bảo đảm sức cạnh tranh của nền kinh tế trước cú sốc từ bên ngoài; trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo... Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế, lựa chọn công nghệ chiến lược, ưu tiên.
Quy mô, tiềm lực kinh tế nước ta ngày càng lớn mạnh. Từ một nền kinh tế ở điểm xuất phát thấp, ảnh hưởng nặng nề của hậu quả chiến tranh, bị bao vây, cấm vận, nền kinh tế Việt Nam chuyển thành nền kinh tế thống nhất, từng bước phát triển; từ việc vận hành theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa, tập trung sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy mô, trình độ nền kinh tế có bước phát triển vượt bậc, từ vài tỷ USD ban đầu, đến năm 2024, GDP đạt khoảng 476 tỷ USD. Từ một nền kinh tế khép kín, chuyển sang nền kinh tế năng động, độ mở cao với tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,29 tỷ USD; quy mô đầu tư nước ngoài (bao gồm cấp mới, điều chỉnh vốn, góp vốn, mua cổ phần...) không ngừng mở rộng. Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao sức cạnh tranh, gia tăng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp, tăng năng suất lao động. Thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập và theo định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập và hoàn thiện...
Bảy là, phát triển văn hóa, xã hội và con người. Từ nhận thức nền văn hóa của Việt Nam “có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc”; đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội, Đảng xác định: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, là hệ điều tiết sự phát triển. Cùng với đó, Đảng khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”(1). Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa; tăng cường hội nhập, tiếp thu, quảng bá giá trị văn hóa, con người Việt Nam; xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực giá trị con người Việt Nam, chấn hưng đạo đức xã hội. Có cơ chế giải quyết vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo, vấn đề dân tộc, tôn giáo; quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình đổi mới; đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; phát triển giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là thu hút trí thức, tài năng ở trong nước và nước ngoài.
Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Ngay sau khi đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để phát triển nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Các thiết chế văn hóa được xây dựng; công tác bảo tồn, gìn giữ di sản văn hóa được quan tâm; hoạt động giao lưu văn hóa được mở rộng. Việt Nam ngày càng có nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được thế giới công nhận; bản sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được gìn giữ, bảo tồn; quản lý phát triển văn hóa được quan tâm;...
Giáo dục và đào tạo đóng góp tích cực vào xây dựng con người, phát triển nguồn nhân lực. Hoàn thành việc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, thực hiện chủ trương miễn học phí cho học sinh mầm non và học sinh trung học phổ thông trong cơ sở giáo dục công lập bắt đầu từ năm học 2025 - 2026. Hệ thống trường học được đầu tư xây dựng. Chất lượng đội ngũ nhà giáo không ngừng nâng lên. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được coi trọng; nhiều cơ sở khoa học, phòng thí nghiệm, trung tâm đổi mới sáng tạo, viện nghiên cứu, cơ sở ứng dụng, chuyển giao công nghệ được xây dựng và phát triển.
Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được chú trọng. Chính sách xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững được quan tâm và thực hiện hiệu quả, đặc biệt là chính sách đối với người có công; giảm nghèo nhanh và bền vững hơn. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội từng bước được nâng cao; dịch vụ công thiết yếu được bảo đảm; Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2024 là 0,73 điểm, tuổi thọ bình quân đạt 74,5 tuổi; bình đẳng giới được quan tâm, quyền con người được bảo đảm; hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân được đầu tư, phát triển mạnh...
Tám là, về quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trên cơ sở nhận thức rõ bản chất, tính chất phức tạp, gay gắt, quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp trong bối cảnh và điều kiện mới, Đảng xác định: Trong hoàn cảnh nào cũng kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Nhận thức ngày càng rõ hơn về kẻ thù, đối tượng tác chiến; xác định bảo vệ chủ quyền biển, đảo trở thành nhiệm vụ lâu dài, đặc biệt quan trọng. Đề ra chủ trương phát triển thế trận an ninh nhân dân, toàn dân, toàn diện; tập trung xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ chiến lược, có tính chủ động cao, có khả năng độc lập tác chiến. Khẳng định trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn dân đối với việc bảo đảm quốc phòng, an ninh, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Đồng thời, định vị nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong các nhiệm vụ quan trọng của đất nước, đó là: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Hoàn thiện lý luận về quốc phòng, an ninh và có tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy” trên cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, điều chỉnh tổ chức theo hướng tinh, gọn, mạnh gắn với bố trí lại lực lượng ở các cấp. Về đối ngoại, từ chỗ phá bao vây, cấm vận đến thêm bạn, bớt thù; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi; xác định làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới. Đại hội XIII của Đảng khẳng định, xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Tăng cường nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về công tác đối ngoại; kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại và quốc phòng, an ninh.
Quốc phòng, an ninh và đối ngoại đóng góp to lớn vào giữ vững hòa bình, ổn định và phát triển đất nước. Chủ quyền, lãnh thổ quốc gia được giữ vững, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược; cứu nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng và hồi sinh, phát triển. Xây dựng nền quốc phòng, an ninh vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại, gây mất ổn định chính trị - xã hội của các thế lực thù địch... Công tác đối ngoại đạt kết quả quan trọng. Tính đến tháng 5-2025, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia; ngày càng tham gia sâu vào các định chế quốc tế lớn, luôn là thành viên có trách nhiệm, đối tác tin cậy; vị thế quốc tế không ngừng được nâng lên...
Chín là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, theo đó đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng trên nguyên tắc “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc”; “Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”; “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa”; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện dân chủ ở cơ sở, quán triệt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, từng bước hoàn thiện hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của các tổ chức này.
Về Nhà nước, đã chuyển từ mô hình nhà nước chuyên chính vô sản sang mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật trong thực tiễn được đề cao; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực có chuyển biến tích cực; bộ máy nhà nước từng bước được tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền,... Quyền con người, quyền công dân và vai trò của các tổ chức đại diện cho người dân tiếp tục được đề cao.
Mười là, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng lên, lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chế độ tiếp tục được củng cố. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ thu được nhiều kết quả; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. Tổ chức cơ sở đảng và đảng viên không ngừng được củng cố, nâng cao chất lượng. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, bỏ cấp trung gian; công tác tổ chức, cán bộ được coi trọng, được coi là “then chốt của then chốt”. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được đẩy mạnh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ; cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Đại hội XIII của Đảng hoàn thiện hơn lý luận về đảng lãnh đạo, cầm quyền, gắn xây dựng Đảng với xây dựng hệ thống chính trị; yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Bên cạnh kết quả đạt được, quá trình 50 năm xây dựng, phát triển đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bộc lộ một số hạn chế như sau:
Nhận thức lý luận của một số cấp ủy, chính quyền chưa đạt yêu cầu, tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, nhất là ở giai đoạn đầu sau khi đất nước thống nhất; bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí đã khiến chúng ta duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp. Những giai đoạn sau, sự phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực chính thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình, bẫy gia công còn cao. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đồng bộ. Quy mô nền kinh tế nhỏ bé, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều bất cập; tình trạng tham nhũng, tiêu cực, thất thoát nguồn lực, nhất là trong lĩnh vực đất đai còn diễn biến phức tạp.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ngày càng nghiêm trọng; môi trường văn hóa ở một số nơi đáng báo động, nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp bị mai một. Đời sống văn hóa ở khu công nghiệp, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn nhiều khó khăn. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; việc xây dựng và triển khai hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực giá trị con người Việt Nam còn chậm; hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Một số chỉ tiêu cơ bản về xã hội chưa đạt; ô nhiễm môi trường còn cao; chính sách xã hội còn thiếu tính bao trùm, sự liên kết, kết nối của các trụ cột chính sách trong tổ chức thực hiện còn bộc lộ nhiều bất cập; chất lượng dịch vụ xã hội chưa đáp ứng yêu cầu; hoạt động y tế, thể dục - thể thao, bảo vệ sức khỏe nhân dân còn nhiều tồn tại; việc xây dựng và phát triển con người toàn diện, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được quan tâm thường xuyên...
Quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập, việc tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao. Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh chưa thật chủ động; tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp; an ninh trên một số địa bàn, lĩnh vực chưa vững chắc, nhất là an ninh mạng. Việc kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh ở một số địa phương, đơn vị chưa hiệu quả. Quan hệ với một số đối tác chưa bền vững; công tác thông tin đối ngoại triển khai chưa linh hoạt, đa dạng.
Quyền làm chủ của nhân dân có nơi, có lúc bị vi phạm; việc thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện của người dân có việc còn hình thức. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ; một số chủ trương của Đảng chậm được thể chế hóa, quy trình xây dựng pháp luật chưa hoàn thiện; phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương, giữa các ngành, lĩnh vực còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, tính chuyên nghiệp chưa cao; công tác tổ chức, cán bộ còn để xảy ra nhiều sai phạm, tiêu cực trong bổ nhiệm, quy hoạch, điều động và luân chuyển. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng chưa được tiến hành kịp thời, sát thực; một số cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu chưa tự giác và thường xuyên nêu gương về đạo đức, lối sống.
Một số vấn đề về nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cần tiếp tục được làm rõ về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Việt Nam đang chuẩn bị bước sang kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình, thịnh vượng của dân tộc. Trong kỷ nguyên mới đó, có thời cơ, thách thức đan xen.
Về thời cơ, sau 50 năm đất nước thống nhất, thế và lực không ngừng lớn mạnh; với quy mô dân số hơn 100 triệu dân, quy mô nền kinh tế đạt gần 500 tỷ USD, bình quân thu nhập theo đầu người khoảng 5.000 USD. Việt Nam là nước đi sau, nhưng có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế thuận lợi, đang tích cực tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số với nhiều mô hình kinh tế mới, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững gắn với bảo vệ môi trường. Đất nước ta có chế độ chính trị ổn định, có đường lối phát triển đúng đắn, được kiểm nghiệm qua thực tiễn, với hệ thống lý luận từng bước được hoàn thiện; có sự ủng hộ và tin tưởng của nhân dân và bạn bè quốc tế,...
Về thách thức, tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, khó lường, cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; tranh chấp thương mại diễn ra quyết liệt; đứt gãy chuỗi giá trị luôn có thể xảy ra; xung đột cục bộ, sắc tộc, tranh chấp lãnh thổ, tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, khó lường. Các vấn đề về an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống diễn biến khó đoán định. Toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra khoảng cách phát triển ngày càng lớn giữa các nhóm nước. Ở trong nước, các hạn chế như đã chỉ ra và nguy cơ chệch hướng, tụt hậu xa hơn, rơi vào bẫy thu nhập trung bình, bẫy gia công còn hiện hữu...
Bối cảnh mới đòi hỏi chúng ta sớm bổ sung, hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới đất nước, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong kỷ nguyên mới, cụ thể là các vấn đề sau:
Một là, về chủ nghĩa xã hội và mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các thành tố đã định hình đã đủ chưa, có nên bổ sung thành tố “phồn vinh”, “hạnh phúc”...? Làm rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát của nước ta đến năm 2045. Về các mối quan hệ lớn, cho đến nay, Đảng ta xác định 10 mối quan hệ lớn, vậy trong kỷ nguyên phát triển mới, mối quan hệ nào sẽ thay đổi, mối quan hệ nào không còn giá trị, mối quan hệ nào sẽ xuất hiện mới? Cần nghiên cứu, làm rõ hơn về giá trị dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; quyền lực thuộc về nhân dân; phát huy dân chủ trong chế độ một đảng cầm quyền và dân chủ trong Đảng; văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức trong Đảng; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, nghiên cứu, làm rõ giá trị phổ quát của nhân loại trên phương diện phát triển kinh tế - xã hội, quyền con người, quyền công dân dưới tác động của kinh tế tri thức, cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tiếp tục làm rõ hơn những giá trị, nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, qua đó thấy được vấn đề nào cần bổ sung, phát triển... Nghiên cứu và hoàn thiện mục tiêu, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, xu hướng phát triển chung mang tính quy luật, trên cơ sở lý luận cũng như những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó đặc biệt là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử... Nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại, những điều chỉnh và giới hạn lịch sử, xã hội; những lý thuyết, học thuyết, trào lưu mới trong sự phát triển của văn minh nhân loại; vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời đại ngày nay; lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong bối cảnh mới.
Ba là, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tiếp tục bổ sung, phát triển giá trị cốt lõi của nền tảng tư tưởng của Đảng trong kỷ nguyên mới.
Lý luận về đường lối đổi mới đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong gần 40 năm qua, thể hiện sự sáng tạo của Đảng có thể trở thành nền tảng tư tưởng hay không?
Làm rõ tính định hướng, các thành tố, nguyên tắc, động lực mới của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong kỷ nguyên vươn mình, thịnh vượng của dân tộc.
Bổ sung, làm rõ, cụ thể hóa đặc trưng, tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là thành phần kinh tế quan trọng, được củng cố và phát triển cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng.
Lý luận về văn hóa, xã hội và xây dựng con người phát triển toàn diện; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; văn hóa, môi trường là nền tảng của sự phát triển, là động lực, hệ điều tiết phát triển xã hội; xây dựng hệ giá trị và phát triển văn hóa, xã hội ngang bằng với kinh tế.
Hoàn thiện lý luận về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy; đối tác, đối tượng; an ninh xã hội, an ninh con người; quốc phòng, an ninh và đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên. Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện lý luận về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, cầm quyền vì dân, cầm quyền khoa học, cầm quyền dân chủ, cầm quyền theo pháp luật, các công cụ cầm quyền của Đảng; cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; tính bền vững của một đảng cầm quyền lâu dài; thách thức cần hóa giải...
Tiếp tục hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về hệ thống pháp luật toàn diện, công bằng, minh bạch, hiện đại, hướng tới người dân; về thống nhất quyền lực, nhưng có sự phân công rành mạch giữa các cơ quan nhà nước; về cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước; về nền công vụ liêm chính, vì dân.
Bốn là, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cần làm rõ đặc điểm, bước đi, chặng đường, giai đoạn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; lý luận về phân kỳ; mối quan hệ giữa đổi mới và thời kỳ quá độ; giữa kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và các chặng đường, các bước quá độ; quan hệ giữa xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, chất lượng mới và hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và điều kiện của Việt Nam. Lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với nội hàm mới trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế phát triển mạnh mẽ; nội dung, nguyên tắc, tiêu chí cơ bản của phát triển nhanh, bền vững đất nước.
Năm là, về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cần nghiên cứu, làm rõ cách thức cụ thể hóa, tổ chức thực hiện, đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, trong đó trực tiếp là đường lối đổi mới, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước qua các kỳ đại hội. Hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có nội hàm khác nhau theo từng giai đoạn, nhưng không tách rời nhau, trong đó: Về xây dựng chủ nghĩa xã hội: cần xác định mục tiêu và chỉ tiêu phù hợp với từng giai đoạn; đột phá chiến lược, nhiệm vụ trọng tâm sau năm 2030? Về bảo vệ Tổ quốc: cần xử lý tổng thể mối quan hệ giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại./.
------------
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài nghiên cứu cấp quốc gia, mã số KX 03.04/21-25
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 76